Chào mừng bạn đã ghé thăm,
Chúc bạn Vui, Khỏe, quanh năm Phát tài.
Nỗi niềm muốn nối vòng dài,
Kết giao muôn nẻo, tương lai nối gần.
-*-
Địa chỉ: SN 328 đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai
ĐT DĐ: 0913 089 230 - Email: luongducmen@gmail.com.

Thứ Sáu, 5 tháng 8, 2022

40 NĂM TRƯỚC, Chuyên án 882S

Có những vụ án, giai đoạn điều tra ban đầu gần như bế tắc và sau khi tìm và gỡ được nút thắt thì việc điều tra hé mở, chuyển sang hướng mới đầy hứa hẹn. Nhưng rồi thời gian sau ánh sáng le lói cuối đường hầm lại vụt tắt !. Hàng loạt nghi can được trả tự do để lại bao nỗi niềm khó tả của người trong cuộc và dư luận. 

882S là một chuyên án kéo dài 6 năm và có diễn biến, kết cục như vậy.

Thứ 7, ngày 14/8/1982 trong khi cả Phòng PC16+21 (ngày ấy CSĐTXH và KTHS chưa chia tách) đang họp thì nhận được lệnh của Giám đốc: “Đêm 13/8/1982 tại Thôn 5, Bản Sen, MK. xẩy ra vụ giết cả nhà 8 người thuộc gia đình anh ĐQH. Yêu cầu đơn vị lập đoàn lên khám nghiệm”.

1. Đường đến Hiện trường:

Đoàn công tác của CA tỉnh gồm: anh Bùi Khuể (Phó trưởng phòng PC16)[1], Chu Xuân Lượng (cán bộ KTHS, đã ra khỏi ngành năm 1986), Lương Đức Mến và 2 ĐTV của PC16, 2 TS của PC14. Mỗi người ngoài phương tiện nghiệp vụ ai cũng phải mang theo súng ngắn, đèn pin, cá mắm, lương khô nên khá lỉnh kỉnh, nhất là với lính KTHS lại còn máy chụp ảnh, va li KN.

Vì hết xe nên Giám đốc điều chiếc xe tải Zin 57 và cử 2 lái xe là Loan, Kiểm[2]. Chiếc xe này chiều vừa chở than chưa kịp rửa nên rất bẩn, xe lại cũ thường phải dừng lại sửa giữa trời mưa.

 8 giờ tối 14/8 xuất phát tới 3 giờ sáng mới đến Phố Ràng (huyện lị huyện Bảo Yên, nằm sát đường 7). Mệt quá, ghé vào Hội trường CA huyện Bảo Yên ngả lưng. Trưa 15 ra đến Phố Lu (huyện lỵ Bảo Thắng) đón Bác sĩ Hà Kiều Lịch, Nguyễn Thị Minh Nguyệt ở BV rồi lại vòng trở về ngã ba Bắc Ngầm để theo đường 7 lên Bản Sen bởi chưa có cầu Phố Lu, cầu Cốc Lếu, cầu Bản Phiệt và đoạn tx Lào Cai đi Bản Phiệt cỏ, lau mọc um tùm, không thể đi được (khi đó tx Lào Cai cũ bỏ hoang).

Khó nhất là từ Phong Hải vào Bản Lầu, lên Bản Sen. Ngày đó, sau chiến sự, dân chưa hồi cư hết, cây cối 2 bên đường mọc um tùm, đường quốc lộ chỉ vừa 2 bánh xe. Xóc kinh khủng trời lại mưa và còn nỗi lo mìn, thám báo phục kích nên xe cứ ì ạch mà bò.

 Gần 20 giờ ngày 15/8 mới đến được khu vực có lối rẽ vào Đội 5. Hết đường, xe đỗ lại gửi nhờ lái xe vào khu tập thể mấy cô giáo Trường Cấp 1 xã Bản Sen, cả đoàn hành quân bộ vào bản.

 Đêm cuối tháng (26/6 Nhâm Tuất) trời rất tối, mò mẫm mãi, đ/c Công an phụ trách xã[3] mới đưa đoàn đến nhà Chủ nhiệm là người Đội 5 (ông Ngô, người Thái Bình, nay đã chuyển ra tf Lào Cai ở).

Đến nơi thấy đoàn cán bộ của huyện gồm Trưởng Công an huyện Hoàng Ún (người Tầy Nghĩa Lộ, sau là Trưởng phòng PC13 Hoàng Liên Sơn, đã nghỉ hưu từ 1986), cán bộ KTHS Lù Văn, Bác sĩ Pháp y Vàng A Phủ[4] cũng vừa từ Lùng Khấu Nhin vượt La Pan Tẩn xuống chờ ở đó.

Nắm tình hình xong như do trời tối, không đủ ánh sáng nên 2 đoàn thống nhất: nghỉ lại mai mới khám nghiệm được. Như vậy từ khi nhận tin tới lúc đoàn đến khu vực Hiện trường tính ra 30 giờ đồng hồ cho một chặng đường hơn 200 km !

2. Hiện trường của vụ án kinh hoàng:

Đội 5 (Na Phả) nằm trong thung lũng, có kinh tế khá và là thôn duy nhất toàn người Kinh từ Thái Bình lên khai hoang từ những năm 1960.

Trong chiến sự 2/79 các gia đình về quê, khi yên ắng mới quay lại. Nhiều mâu thuẫn về ruộng nương, trâu bò của người khai hoang sơ tán về quê với người địa phuơng sơ tán lên rừng trở về sớm. Tỉnh, huyện tăng cường nhiều đợt cán bộ về nên tình hình cũng đã yên ắng phần nào. Đây cũng là tuyến đường vận chuyển hàng lậu của các nhóm “chân đất” từ Phố Lu vào Bản Lầu, vượt núi La Pan Tẩn để lên Cao Sơn, đến Pha Long rồi sang Trung Quốc và ngược lại. Do vậy cứ đêm khuya có khá nhiều người qua lại.

Sáng 16/8/1982 cuộc KNHT, KNTT được tiến hành. Nhà anh ĐQH ở ngay trung tâm, cạnh đường lớn đi dọc thôn qua con suối nhỏ, cách đó 50-100 m là các hộ cùng thôn, nhiều người có quan hệ họ hàng. Nhà thấp, tối, đồ đạc sơ sài. Xác em gái (16 tuổi) và 4 con chủ nhà (lớn 12 tuổi, nhỏ nhất 5 tuổi) nằm la liệt trên 2 giường, dưới đất, thi thể đẫm máu, duy nhất có bé nhỏ 3 tuổi là lành lặn. Các vết thương để lại chứng tỏ do một hung khí sắc, lực chém mạnh, và quyết giết đến chết. Con dao phát đẫm máu dựng ngay chân cột, cạnh xác cháu lớn. Còn vợ chồng anh và cô con gái lớn không thấy. Tài sản bị mất, theo người nhà xác định: một đài Nationa 2 cửa băng, 1 bộ quần áo đại cán.

Khoảng 2 giờ sau cuộc khám nghiệm kết thúc, mọi người ra trung tâm xã để lên xe về luôn Yên Bái.

Chiều 17/8 Giám đốc triệu tập cuộc họp đủ các lãnh đạo các đơn vị nghe trinh sát và KTHS báo cáo. Hội nghị thảo luận rất sôi nổi, ai cũng có lý lẽ riêng và thông tin báo cáo ra còn khá mung lung nên xem ra khó thống nhất, đặc biệt là tính chất vụ án “Hình sự” hay “Chính trị”? Nếu là hình sự thì là “Giết người cướp của” hay do “thù tức”, do “mê tín” hoặc để “bịt đầu mối một vụ án khác”?...Giám đốc quyết định thành lập Ban Chuyên án (BCA) lấy bí số 882S do đ/c Phó Giám đốc GSD làm Trưởng ban và 2 đ/c Phó Ban Chỉ huy (CSND và ANND) làm Phó trưởng ban; thành viên là các đ/c lãnh đạo và cán bộ có kinh nghiệm của một số đơn vị AN, CS, Phong trào và Công an huyện[5].

Sau 2 ngày chuẩn bị, Ban Chuyên án lại vào Bản Sen. Nhưng một “điềm” không hay là đ/c Phó Giám đốc kiêm Trưởng BCA chỉ dự họp với các thành viên đúng hôm đầu, sau đó đi điều trị tại BV 198 bởi một căn bệnh cũ bùng phát!

3. Giai đoạn điều tra ban đầu:

Vụ án xẩy ra gần biên giới trong tình hình phức tạp: thám báo, biệt kích, bọn phản động hoạt động mạnh; bọn buôn lậu...nổi lên rất nhiều, gây hoang mang cho quần chúng. Dư luận loang xa, một số người dân đã lục tục kéo nhau về quê. Lúc đầu có ý kiến cho là “ma chài” rồi lại “chính trị” sau nghiêng sang “hình sự” nên số chưa từng có kinh nghiệm như bọn tôi chẳng biết bắt đầu từ đâu.

Được giao nhiệm vụ về Viện KHHS báo cáo, sau khi nghe Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng (thầy dạy PY của tôi) và lãnh đạo các Phòng của Viện hỏi càng thấy rõ việc khám nghiệm sơ sài, mắc nhiều lỗi. Đặc biệt con dao thu ở HT có dính máu, tóc nhưng không bảo quản tốt nên không lấy được dấu tay... mẫu máu của các nạn nhân cũng chẳng thu nên không biết đây có phải con dao gây án không và có là duy nhất không? Lỗi tại tuổi trẻ, tại đường xa, tại tâm lý hoang mang sợ bị...tập kích và tại nhiều mây mây khác nữa!

Đến tháng 9/1982 tiến trình điều tra vụ án vẫn gần như bế tắc. Để lấy mẫu máu, BCA đã khai quật 5 ngôi mộ vừa chôn. Kết quả giám định đúng là con dao đó dính máu trùng với nhóm máu của 3 nạn nhân nhưng còn dấu vân tay trên cán dao thì chồng lấp quá nhiều nên đành chịu. Đây là kỷ niệm buồn bởi sai sót nghề nghiệp không của riêng KTHS, PY mà của cả người chỉ đạo KN.

BCA được tăng cường thêm cán bộ Điều tra hình sự quân đội phối hợp, lại có một Tiểu đội vũ trang C13 (của Công an tỉnh) bảo vệ. Lúc này nhu cầu xác định số phận 2 vợ chồng và con gái lớn chủ nhà được đặt lên hàng đầu.

4. Mở hướng điều tra sát hợp:

Bộ phận chủ yếu của BCA nằm tại Đội 5 do đ/c Dương Châu Sa (Phó BCHCS[6]) phụ trách, cán bộ CAH phụ trách địa bàn là Nguyễn Xuân Kiên, lái xe phục vụ đoàn là Nguyễn Hoà. Cán bộ KTHS có Lương Đức Mến, Chu Xuân Lượng. Các trinh sát viên lo nắm tình hình từ nhân dân, từ những nhóm buôn lậu, từ các đơn vị bộ đội, tổ C13 lo bảo vệ cho BCA và phối hợp với dân quân tuần tra quanh khu vực. Riêng KTHS “nhàn nhã” hơn, với chiếc máy ảnh (của xa xỉ thời đó) đã “dân vận” được khối thực phẩm trong hoàn cảnh khan hiếm thời đó. Nhưng để “tăng gia” thêm, có lần chúng tôi phải về nhà tôi ở Phong Niên hay ra Phố Lu (Bảo Thắng) mới kiếm được chút thực phẩm tươi mang vào.

Thời gian qua đi, 2 tháng vẫn chưa tìm thấy thông tin về số phận vợ chồng và con gái lớn của anh H giữa một rừng dư luận và bạt ngàn cỏ cây hoang dại. Đ/c Phó Giám đốc Đặng Khuynh lên, Ban Chuyên án họp và quyết định dựng lại HT vào ngày 05/10. Hôm đó BCA cùng chính quyền xã, chỉ huy các đơn vị bộ đội đóng quanh vùng huy động tổng lực CA, BĐ, DQ, HS... chia ô truy tìm. Các cánh đồng Đội 5, các khe suối, lối lên nương, lối mòn lên rừng lấy lâm sản, lối đi của dân “chân đất” đều được sục tìm. Đến chiều 07/10 tìm thấy 3 đống xương nằm dọc khe Lũng Tây cạnh bìa rừng già trên dẫy La Pan Tẩn, cách nhà anh H hơn 1,5 km. Thông tin được tổ Cơ yếu đi theo gửi báo cáo về CA tỉnh khi đó ở thị xã Yên Bái.

Sáng 09/10 Hội đồng khám nghiệm (có bổ sung một số thành viên vừa từ CA và VKS tỉnh lên) tiến hành các thao tác theo quy định. Bước đầu đã xác định đó là những bộ phận còn lại của thi thể vợ chồng và con lớn anh H. Tôi và Hội đồng khám nghiệm đã tìm thấy dấu vết do bị đạn bắn tầm gần trên 2 đống xương cùng 3 vỏ đạn cỡ 7 ly 62 có số 539-75 cạnh xác vợ chồng chủ nhà một số xương bị mất được cho là do muông thú tha đi.

Cuộc họp của Ban Chuyên án ngày hôm sau với đ/c Phó Giám đốc thống nhất nhận định: đây là vụ giết người, cướp của có sử dụng súng quân dụng và hướng điều tra tập trung vào số dân quân, bộ đội từng tham gia buôn bán, áp tải hàng lậu ở khu vực. Đề xuất bắn thực nghiệm lấy vỏ đạn của KTHS được BCA chấp thuận, báo cáo về Giám đốc CA tỉnh và Viện KHHS cho triển khai ngay.

5. Bắt nghi can từ Kết luận giám định và chứng cứ khác:

Theo yêu cầu của Công an Hoàng Liên Sơn, ngày 25/10 Đoàn cán bộ Viện Khoa học hình sự (gồm các đ/c Hò[7], Trường, Cường) lên tận HT cùng cán bộ KTHS, TS của Ban Chuyên án, cán bộ điều tra hình sự F, trợ lý bảo vệ E khảo sát thực tế và lập kế hoạch chi tiết.

Nhờ những nỗ lực chung, 144 khẩu súng do các đối tượng nằm trong tầm ngắm của BCA được thu về nơi đóng quân của Tổ công tác thuộc Quân đoàn 2z (gồm 57 súng AK của C và đơn vị thông tin của F) và của xã đội Bản Sen (là 87 súng AK, CKC, K63 của dân quân quanh khu vực).

Ngày 29 và 30/10, cán bộ ĐTHS, một số dân quân và TS của BCA tập trung trong bãi phẳng gần khe Lũng Tây bắn mỗi súng lấy 3 vỏ đạn. Các vỏ đạn thu được chuyển cho KTHS cùng đoàn cán bộ Viện KHHS đóng quân tại trụ sở Đội 5 thực hiện giám định ngay tại chỗ.

Đoàn mang lên 1 Kính hiển vi loại nhỏ, không có máy nổ, ác quy hết điện phải đấu pin để có ánh sáng. Kết quả ban đầu đã loé lên tia hi vọng mới: trong số 144 khẩu súng thu giữ đã có 8 súng có những đặc điểm chung và một vài đặc điểm riêng để lại trên vỏ đạn bắn thực nghiệm tương tự dấu vết súng để lại trên các vỏ đạn thu được cạnh 2 đống xương ở khe Lũng Tây ngày 09/10.

Đoàn cán bộ KTHS quay về Công an tỉnh báo cáo. Yêu cầu giám định số 43 kí ngày 04/11/1982 được đoàn cán bộ C21 đem về Viện KHHS cùng 3 vỏ đạn thu tại HT và các vỏ đạn thu do bắn thực nghiệm tại chỗ.

Hai tuần sau, tin điện từ Hà Nội lên thông báo rõ: “khẩu súng AK số: MA4346 do Nguyễn Th., đơn vị thông tin B15W quản lý và khẩu AK số 19065796 do Phạm Văn V., đơn vị C1 giữ đã bắn ra 3 vỏ đạn để lại ở HT khe Lũng Tây”. Hướng điều tra tập trung rõ hơn vào 2 quân nhân này và những người liên quan.

Lúc này ở địa phương rộ lên tin đồn là khoảng tháng 7/1982 gia đình nạn nhân đào ao đã tìm được chiếc bình cổ rất có giá trị và gia đình đang chuẩn bị chuyển về quê nên bị kẻ xấu sát hại để cướp đi. Dân càng hoang mang, áp lực đẩy nhanh quá trình điều tra lại càng đè lên vai BCA.

BCA đã phối hợp với ĐTHS bên Quân đội thống nhất các kế hoạch tiếp theo. Sau đó 2 khẩu súng nghi vấn được đ/c Đỗ Quang Vinh (Ban ĐTHS Quân đoàn 2z[8]) thu giữ và giao cho BCA chuyển về Viện KHHS. Khi nhận 2 khẩu súng này C21 đã giám định chính thức và trả lời bằng Bản giám định số 917/P6-GĐ ký ngày 10/6/1983 với kết quả như nội dung đã thông báo qua điện mật. Lúc này qua sàng lọc tin tức, một vài đối tượng không phải là quân nhân ở gần nhà anh H cũng được BCA đưa vào vòng ngắm và có nhiều thông tin mới. Bộ quần áo của họ mặc đã được thu bí mật và xác định có dính máu người.

Vì chưa rõ súng nào đã bắn cháu C. (con gai lớn anh H.), nên ngày 12/7/1983 tiến hành KN bổ sung khe Lùng Tây và đã tìm được thêm 2 vỏ đạn, 1 đầu đạn cạnh xác chủ nhà, 1 đầu đạn cạnh xác cháu gái. Kết quả giám định số 538 ngày 11/11/1983 của P6 C21: “vỏ và đầu đạn thu cạnh xác anh H do súng AK 19065796 bắn ra, còn đầu đạn thu cạnh xác cháu Đ T C không đủ yếu tố giám định”.

Tổng hợp các nguồn tin và kết quả giám định, trong tháng 11/1983 BCA bắt 5 người, là[9] Tr M H. (ngày 13/11), Tr V P. (ngày 25/12) là người dân Đội 5 và P V V. (ngày 17/11), B Q B. (ngày 17/11), N X K (ngày 11/11) là quân nhân thuộc đơn vị D1x F3xy, QĐ 2z đóng quân cạnh đó. Đây là các đối tượng có bất minh về thời gian, về kinh tế, có biểu hiện lo âu và liên quan đến 2 khẩu súng AK MA4346 và 19065796.

Đ/c Giám đốc Phạm Kham đến tận Bản Sen động viên BCA và CBND địa phương. Sau đó BCA rút, để lại một số đ/c cùng địa phương nắm, ổn định tình hình. Các TS, ĐTV về khu sản xuất Phong Quang do BNV quản lý (thuộc đất Bảo Thắng) để lấy lời khai các đối tượng vừa bắt giữ. Riêng cán bộ KTHS về Công an tỉnh tiếp tục công việc.

Với người đang thuật việc thì đây là một vụ án tham gia BCA lần đầu, khi chưa có chức danh gì và ở lại HT lâu nhất. Thời gian lưu lại HT còn thực hiện 1 vụ KNTT khác do đơn vị không điều quân lên được. Đó là vụ: “Lý Thị Hoa hi sinh vì thóc gạo” xẩy ra ở Na Lốc, Bản Lầu với một tay cầm máy ảnh, 1 tay đi găng thăm khám thương !.

6. Thu được đồ vật được coi là bị mất từ lời khai nghi can:

Khi đi cung, các đối tượng đều thừa nhận là được giao quản lý khẩu súng mà BCA đã thu; có quen biết, mối quan hệ làm ăn với gia đình anh H. Nhưng không khai là đã tổ chức giết gia đình anh ấy. Chiếc đài Nationnal, bộ quần áo của anh H bị mất cũng chưa tìm thấy nên công tác đấu tranh gặp nhiều khó khăn.

Bằng những biện pháp nghiệp vụ, TS đã buộc T V P, tháng 4/1984 khai ra nơi giấu chiếc đài, tháng 7/1984 khai ra nơi giấu bộ quần áo lấy được ở nhà anh Hào. Các ĐTV, KTHS (đ/c Vũ Thanh Bình[11]) lại lên đường. Kết quả: ngày 09/4 tìm được chiếc đài National gói trong Ninol để ở một hẻm đá, sau đó ngày 12/7/1984 tìm và thu được bộ quần áo giấu trong một hốc đá sâu dưới khe suối. Cả 2 nơi này đều gần khu vực gia đình nạn nhân và các đối tượng T V P, T M H. BCA rất mừng, càng vui hơn khi thân nhân nhận đúng đó là đồ vật nhà anh H. Sau đó một số đối tượng đã “mở miệng” và một bản Kết luận điều tra được khởi thảo, có diễn biến vụ án, định rõ tội danh, phân được ngôi thứ các đối tượng tham gia...

Vụ án tưởng như kết thúc trọn vẹn và BCA có thể ăn mừng, đón nhận phần thưởng. Bản thân tôi, số tiền ứng đi 600.000 đ chi tiêu cho BCA chắc sẽ được quyết toán và còn được thưởng thêm như lời hứa của Giám đốc.

Đây là thời kỳ tôi vừa cuới vợ (ngày 22/01/1982, tức 28 tháng Chạp Tân Dậu), chuẩn bị sinh con (ngày 28/02/1983, tức 16 tháng Giêng Quí Hợi)[10]

7. Kết thúc không có hậu sau 6 năm điều tra:

Từ cuối 1984, lực lượng KTHS không tham gia vào quá trình điều tra vụ án nữa. Hồ sơ liên quan thiếu đã được hoàn thiện, trong đó Bs Pháp y tham gia khám nghiệm đến lúc BCA phát hiện chưa ký Biên bản thì anh ấy đã chuyển vùng về quê, phải tìm mãi! Hay bộ quần áo thu của T M H chẳng rõ ai đã giữ?

Sau vụ án được chuyển về C16 và Cục Điều tra hình sự Bộ Quốc phòng thụ lý. Quá trình điều tra kéo dài, thông tin đến với những người từng tham gia ban đầu lúc thì tràn đầy phấn khởi, lúc lại gần như mịt mờ tăm cá.

Giữa năm 1988, đ/c Trần Quyết, Viện trưởng Viện KSNDTC lên tận HT để thị sát lần cuối. Là người được tham gia KNHT tới 4 lần nên khi tháp tùng Đoàn công tác lên nghiên cứu lại HT tôi thấy rõ 6 năm qua đi HT đã biến đổi nhiều, khu nhà anh H đã thành bãi hoang, khu rừng già đã thành nương rẫy! Nhưng tôi nhớ rất rõ thứ tự các đống xương nằm từ trên đỉnh đồi xuống tới nơi đóng quân của C Thông tin chứ không ngược lại như các ĐTV đã dẫn đường mô tả. Tôi hiểu rằng họ không có mặt hôm KNHT, đã nghiên cứu không kĩ hoặc hồ sơ đã bị thất lạc.

Sau đó, các thành viên BCA (người đã hưu, người chuyển công tác khác) được triệu tập báo cáo lần cuối với Ban Thường vụ tỉnh uỷ, ý kiến nhận định về tính chất vụ việc, về các đối tượng gây án, kết quả điều tra vẫn y nguyên. Đồng thời chúng tôi nghe kháo nhau rằng nhiều vật chứng, tài liệu bị thất lạc!

 Do nhiều nguyên nhân mà những người tham gia BCA giai đoạn đầu không nắm rõ, vụ án phải đình chỉ điều tra bởi Quyết định đình chỉ điều tra số 88/KS5 ngày 28/12/1988 của VKSQSTW đối với các cựu quân nhân. Riêng T V P cùng hồ sơ vụ án được di lý cho VKSND tỉnh Hoàng Liên Sơn thụ lý (Biên bản bàn giao lập ngày 20/01/1989). Đến ngày 09/10/1989 Viện KSND tỉnh ra Quyết định Miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với T V P. Như vậy, đến thời điểm đó cả 5 đối tượng bị bắt giữ tháng 11/1983 đều đã được trả tự do. Hồ sơ vụ án khép lại!.

BCA không được khen, thưởng như nhiều người nghĩ và số tiền tôi ứng chi ngày ấy cứ treo nợ mãi. Sau đó, do có việc “đổi tiền” vào ngày 4/9/1985 (theo Quyết định số 01-HĐBT/ ngày 13-9-1985 của Hội đồng Bộ trưởng) với quy định “sức mua của đồng tiền mới bằng 10 lần sức mua của đồng tiền cũ” nên 600.000 đ chỉ còn bằng 60.000 đ, có nghĩa là chưa bằng một tháng lương Thiếu uý nên năm 1986 tôi chấp nhận trừ vào mình. Thực ra 600 hồi đó rất lớn, may mà “trượt giá” và đổi tiền chứ nếu quy ra vàng thì tôi có mà đền “ốm xác”!.

8. Bài học của KTHS:

8.1. Những điểm mà KTHS làm được, góp phần phá án:

- KNHT, KNTT khẩn trương (trong điều kiện ngày đó), xác định đúng nguyên nhân tử vong, thời gian gây án;

- Khi dựng lại HT đã tìm thấy 3 xác nữa, thu được vỏ đạn. Đây là những vật chứng quan trọng giúp nhận định đúng tính chất vụ việc;

- Giám định vỏ đạn từ 144 khẩu súng đã tìm ra 2 khẩu súng để lại vỏ đạn ở HT khe Lũng Tây. Từ đây giúp BCA tìm ra người sử dụng nó;

- Tham gia tìm và thu được vật chứng do thủ phạm chôn, giấu.

8.2. Những điểm mà KTHS chưa làm tốt:

- KNHT tại nhà tìm thấy con dao gây án, chính là con dao phát của gia đình còn dựng ở góc nhà, nhưng không bảo quản để GĐ dấu tay và dấu máu. Mẫu máu của nạn nhân cũng không thu sau phải khai quật 4 xác lấy tóc tìm nhóm máu.

- BBKNHT lập ngay nhưng không hoàn thành sớm và lấy đủ chữ kí những người tham gia. Khi chuyển vụ án saang ĐTHSQĐ mới đi lấy chữ kí, nhiều người đã chuyển vùng, hưu nên chữ kí lấy không hết, là 1 trong những “cớ” để huỷ án.

- Bộ quần áo TMH mặc khi gây án có dính máu do TS thu bí mật để lấy mẫu giám định nhưng không chuyển hoá chứng cứ, sau bộ quần áo lại thất lạc nên chứng cứ là dấu máu trên quần áo TMH mặc không được thừa nhận.

- KNHT khe Lùng Tây lần đầu ngày 9/10/1982 bỏ sót đến ngày 12/7/1983 tìm thêm được 2 vỏ đạn, 2 đầu đạn nhưng đầu đạn thu tại xác cháu C. đã han rỉ, không đủ yếu tố giám định nên không rõ khẩu súng nào đã bắn cháu C..

- Việc bắn 144 khẩu súng thu vỏ đạn không lập biên bản tại chỗ, không niêm phong các vỏ đạn đã bắn của riêng từng khẩu nên có ý kiến không công nhận kết quả giám định súng đạn là khách quan !

Tham gia Ban chuyên án từ khi là Thiếu uý, lính trơn tới lúc vụ án có Quyết định đình chỉ điều tra đã là Thượng uý, Phó Trưởng phòng, tôi thu lượm được những kinh nghiệm nhất định và theo thời gia, đã trưởng thành nhiều. Do vậy, hồi tham dự lớp Bồi dưỡng Chính trị, nghiệp vụ, Khoa học lãnh đạo (C5) tại Trường ĐHCSND (Cổ Nhuế, Từ Liêm) từ tháng 9 đến tháng 12/1986 khi kết thúc khoá học đã viết Tiểu luận : “Sự thống nhất giữa Chiến thuật và Kĩ thuật trong bước điều tra ban đầu một vụ án ở vùng rừng núi có sử dụng súng quân dụng”  mà tư liệu chủ yếu lấy từ vụ 882S này.

 Kỷ niệm quá trình tham gia chuyên án vui, thành công có và buồn, thất bại cũng có. Dù sao đây cũng là bàì học lớn, bài học đầu đời của tôi và là bài học chung cho KTHS nói riêng và công tác ĐTHS nói chung. Đặc biệt từ đó chưa bao giờ tôi thấy có một cuộc họp nghe báo cáo án lại có thành phần và nội dung bàn bạc, tranh luận như cuộc họp 17/8/1982, âu cũng là điều đáng tiếc!.

Nhiều chi tiết quá trình điều tra, do chỉ tham gia mảng KTHS nên người viết không nắm được hoặc do thời gian, tư liệu lưu trữ thất lạc nên bài lược trên có chi tiết thiếu, nhầm nhưng bản chất thì không có gì sai, ghi lại để nhớ. Quả là:

Thành công là của nhiều người,

Lỗi lầm, thất bại khó lời phân chia.

- Bài đã gửi tham dự cuộc thi “VÌ BÌNH YEN CUỘC SỐNG” do Bộ Công an tổ chức, đạt giải Nhất cấp tỉnh-.


     [1] Sau là Phó trưởng CAH Bảo Thắng rồi Phó trưởng phòng PC13 Công an tỉnh Lào Cai, nghỉ hưu 1993 khi đã chuyển nhà lên ở đường Hoàng Liên thuộc Tiểu khu Kim Tân (thành lập 01/9/1992, trước đó toàn bộ khu Hữu ngạn tf Lào Cai nay đều  thuộc xã Đồng Tuyển). X

Nhớ rằng, xã Đồng Tuyển được tái lập 4/1982, bao gồm cả địa bàn các khu Kim Tân, Duyên Hải, Cốc Lếu và vùng đất xã Đồng Tuyển hiện nay (Do hậu quả chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc tháng 02/1979, xã Đồng Tuyển và các khu: Kim Tân, Duyên Hải, Cốc Lếu, Lào Cai trở thành vành đai trắng, khi tái lập xã Đồng Tuyển các khu: Kim Tân, Duyên Hải, Cốc Lếu, Lào Cai do dân chưa hồi cư, nên sáp nhập với xã Đồng Tuyển).

Ngày 03/6/1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 31/CP về việc thành lập các phường thuộc thị xã Lào Cai. Theo đó tiểu khu: Kim Tân được nâng cấp thành phường Kim Tân.

     [2] Con rể cụ Phạm Kiểm và khi tách tỉnh (1991) anh ở lại Yên Bái, đã mất.

[3] Nguyễn Xuân Kiên (vợ là Nguyễn Thị Hằng, sau là PTP PC64 CA tỉnh Lào Cai) sau ra Công an tỉnh, công tác tại Thanh tra rồi về nhận nhiệm vụ Phó trưởng CA phường Xuân Tăng, Đội phó PV11 rồi nghỉ hưu năm 2013 tại tf Lào Cai.

     [4] Anh này sau vì tham đem tiền cơ quan “đổi” lấy tiền giả từ TQ tuồn về nên bị án tù.

     [5] Ngày ấy tôi và trinh sát Nguyễn Kính chỉ là Trung úy nhưng vẫn có tên trong BCA, chứ sau này tôi thấy BCA đều có hàm “Trưởng phòng” nhưng những “thành viên quan” này chỉ có mặt “họp hôm mở màn” còn làm lại là lính!

     [6] Bố đẻ đ/c Dương Thanh Mai (cán bộ TTCC, sau là Trưởng CA phường rồi nghỉ hưu tại tf Yên Bái). Cụ nguyên là Giám thị Trại Tạm giam. Tuy không được học hành cơ bản nhưng do trưởng thành từ lính lên nên cụ khá “tinh”.

BCHCSND được thành lập theo Nghị định số 250-CP ngày 12/6/1881 của Chính phủ và Quyết định số 110/QĐ-BNV ngày 20/12/1981 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ nhưng không có thực quyền. Về sau theo Chỉ thị số 03/CT-BNV ngày 04/5/1992 của Bộ trưởng BCHCSND được bãi bỏ. Nhưng trên Bộ cấp Tổng cục CSND vẫn tồn tại được gọi là TCII và sau này theo Nghị định số 77/2009/NĐ-CP ngày 15/9/ 2009 của Chính phủ được tách ra thành 4 Tổng cục và BTL là: TC VI, TC VII, TC VIII và K20. Bên An ninh cũng từ một Tổng cục, sau 2009 tăng lên thành 2: TCAN1 và TCAN2. Tháng 8 năm 2018, thực hiện Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị, Nghị quyết 01 và Đề án 106 của Đảng ủy Công an Trung ương về sắp xếp tinh gọn bộ máy theo mô hình tổ chức mới. Ngày 6 tháng 8 năm 2018, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã ký ban hành Nghị định 01 có hiệu lực cùng ngày quy định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an, theo đó Bộ Công an không còn cấp Tổng cục.

     [7] Đ/c Nguyễn Văn Hò sau đi NCS ở Tiệp Khắc lấy bằng PTS (sau đổi gọi là TS) rồi về Viện, sau  được đề bạt Phó Viện trưởng và từ 2012 kiêm Phân Viện trưởng C54B, đã nghỉ hưu năm 2014 dù còn tham gia giảng dạy tại HVCS mấy ănm sau mới nghỉ hẳn..

     [8] Còn gọi là Quân đoàn 6 thuộc Quân khu 2 thành lập ngày 16/4/1979, gồm các sư đoàn bộ binh 316, 335, 345 cùng một số đơn vị binh chủng. Tư lệnh: đại tá Nguyễn Năng. Chính ủy: đại tá Nguyễn Công Trang. Trụ sở Bộ Chỉ huy đóng tại khu Trại Cải tạo K1 cũ, bên trái km8 đường Phố Lu đi Bắc Ngầm, thuộc địa phận thôn Xuân Đâu xã Xuân Quang, giáp thôn An Hồ xã Phong Niên nhà tôi. Sau này, một phần trả lại cho dân canh tác, phần lớn giao cho Trường Quân sự tỉnh và là địa điểm tỉnh Lao Cai tổ chức diễn tập năm 2008.

     [9] Tên những người bị bắt đã thay đổi!

      [10] Nên đã viết thành bài thơ như sau:

Bấy lâu công tác Biên thuỳ,

Hôm nay cha mới về nhà thăm con.

Ngày đi con một tháng tròn,

Thương em một bóng hao mòn đêm đêm.

Biên thuỳ cách trở cánh chim,

Lòng thương con trẻ xa nên hoá gần.

Về nhà vừa bước đến sân,

Bồng con Cha ngỡ mùa Xuân đã về.

     [11] Nguyên là cán bộ Công an Tx Lào Cai cũ, sau khi tốt nghiệp Khóa D2 ĐHCSND chuyên ngành KTHS về CA HLS từ 1981. Đến năm 5/1985 đề bạt PTP PC21, sau đó 1986 chuyển về Khoa NV3 ĐHAN, sau đó về Phòng Tư liệu giáo khoa của HVAN, nghỉ hưu tại Hà Nội từ 2010.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tôn trọng nguyên tắc cộng đồng và sở nguyện cá nhân