Chào mừng bạn đã ghé thăm,
Chúc bạn Vui, Khỏe, quanh năm Phát tài.
Nỗi niềm muốn nối vòng dài,
Kết giao muôn nẻo, tương lai nối gần.
-*-
Địa chỉ: SN 328 đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai
ĐT DĐ: 0913 089 230 - Email: luongducmen@gmail.com.

Chủ Nhật, 12 tháng 10, 2014

4.1. LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT TRUNG QUỐC



(Thay thế cho phần 4.1. Tổ chức Bộ Công an Trung Quốc đã đăng)


Khác Việt Nam, Trung Quốc tổ chức LLAN và LLCS riêng và CSND gọi là “Cảnh giám” 警察 nằm trong Bộ Công an 中华人民共和国公安部.

4.1.1. Khái lược:Đây là cơ quan công quyền, thống nhất chỉ huy lực lượng Cảnh sát 警察.
Cảnh sát Trung Quốc 中华人民共和国警察 cũng giống như LLCS các nước, là một trong những lực lượng vũ trang của một nhà nước, là công cụ chuyên chế của giai cấp thống trị xã hội. Cảnh sát hoạt động trong khuôn khổ pháp luật với những quyền hạn thông thường rất lớn, cảnh sát có nhiệm vụ đảm bảo ổn định cho xã hội, trật tự kỉ cương, bảo vệ lợi ích của nhà nước trong xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Cảnh sát được sử dụng các biện pháp theo luật định và những biện pháp riêng có để thực thi công vụ đó và nhiệm vụ cụ thể phổ biến của cảnh sát thường là phòng chống tội phạm và xử lý các vi phạm pháp luật khác như: vi phạm luật giao thông, luật kinh doanh, luật hình sự...
Tiền thân LLCS Trung Quốc có từ thời nhà Thanh (清朝), ở thành phố Thiên Tân 天津是. Hiện nay, tại Trung Quốc ngoài lực lượng do Bộ Công an trực tiếp quản lý (760.000 người), LLCS còn có ở: Bộ An ninh quốc gia[1] 国家安全部, Bộ Tư pháp 司法部, Tòa án nhân dân tối cao 最高人民檢察 (khoảng 330.000 người), Bộ Đường sắt 鐵道部, Bộ Lâm nghiệp 林業部, Tổng cục Hàng không dân dụng 民航總局, Tổng cục Hải quan 海关总署 (khoảng 200.000 người), dưới địa phương là các Cục, Phòng, Đồn .
Riêng lực lượng CS thuộc Bộ Công an được tổ chức thống nhất theo kiểu “song trùng” lãnh đạo (cấp ủy Đảng và Chính phủ nhân dân địa phương). Đặc khu Hồng Công có 30.000 nhân viên và được đánh giá là: "tốt nhất trong lực lượng cảnh sát ở khu vực Châu Á" (亚洲最佳警队).


4.1.2. Nhiệm vụ:Bộ Công an là cơ quan quản lý nhà nước trực thuộc Quốc vụ viện nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (中华人民共和国国务院,Zhōng huá Rén mín Gòng hé guó guó wù yuàn), thành lập năm 1949, Trụ sở tại số 14 phố Trường An, khu Đông Bắc Kinh (北京市 東長安街 14號) có nhiệm vụ:
- Phòng ngừa, ngăn chặn và phát hiện các hành vi bất hợp pháp hình sự,
- Ngăn chặn và trừng trị về các hoạt động khủng bố,
- Duy trì trật tự xã hội, quy định các hành vi nguy hại đối với trật tự xã hội,
- Quản lý giao thông, cháy nổ và các nguyên vật liệu độc hại,
- Quản lý đăng ký hộ khẩu, hộ tịch, thẻ nhận dạng, xuất nhập cảnh và cư trú của người nước ngoài tại Trung Quốc, đi du lịch các dịch vụ liên quan,
- Đảm bảo việc thực thi pháp luật,
- Bảo vệ các mục tiêu quan trọng và hàng đặc biệt;
- Quản lý việc lập hội, biểu tình ,
- Giám sát quản lý mạng lưới thông tin,
- Hướng dẫn, giám sát và định hướng cho các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, kinh doanh bảo vệ các công trình xây dựng đúng quy định của pháp luậdt, đảm bảo trật tự, an ninh công cộng .

4.1.3. Cơ cấu tổ chức:Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đó, Lực lượng Cảnh sát Trung Quốc có 27 Cục, Vụ, Ban sau:
一局:國內安全保衛局(即原政治保衛局): Bảo vệ an ninh trong nước (Cục an ninh chính trị)
二局:經濟犯罪偵查局 Cục Điều tra tội phạm Kinh tế ,
三局:治安管理局: Cục Quản lý Trị an,
四局:邊防管理局 : Cục Quản lý Biên giới,
五局:刑事犯罪偵查局 : Cục điều tra tội phạm Hình sự,
六局:出入境管理局 : Cục Quản lý Xuất, Nhập cảnh,
七局:消防管理局 : Cục Quản lý chữa cháy,
八局:警衛局 : Cục Bảo vệ,
九局: 中央警衛局: Cục Bảo vệ Trung ương,
十局:鐵道部公安局 : Cục Công an trong Bộ Đường sắt
十一局: 公共信息網路安全監察局 Cục Giám sát an toàn đường dây và tin tức Công khai.
十二局:行動技術局: Cục: Hành động kỹ thuật
十三局:監所管理局 : Cục Quản lý trại giam,
十四局:交通部公安局 : Cục Công an Giao thông đường bộ,
十五局:中國民用航空總局公安局: Cục Công an thuộc Tổng cục Hàng không dân dụng Trung Quốc,
十六局:國家林業局公安局: Cục Công an thuộc ngành Lâm nghiệp,
十七局:交通管理局: Cục Cục Quản lý giao thông ,
十八局:法制局 : Cục Pháp chế,
十九局:外事局 : Cục Ngoại sự,
二十局:裝備財務局 : Cục Tài chính-Trang bị,
二十一局:禁毒局: Cục Cấm độc,
二十二局:科技局: Cục Khoa học và Công nghệ,
二十三局:信息通信局: Cục Thông tin và Truyền thông,
二十四局:緝私局: Cục chống tham nhũng,
二十五局:機關服務局: Cục Phục vụ Đoàn,
二十六局:反邪教局 : Cục Chống Tà giáo,
二十七局:反恐怖局: Cục Chống Khủng bố.
Các cơ quan 其他機構 trực thuộc có:
政治部 Cơ quan Chính trị
辦公廳 Văn phòng tổng hợp
機關黨委 Đảng ủy cơ quan
離退老幹局 Câu lạc bộ hưu trí.

4.1.4. Hệ thống cấp bậc hàm:Cảnh sát Trung Quốc không phong quân hàm như quân đội mà chia ra 5 bậc Cảnh hàm 警衔. Hệ thống Cảnh hàm hiện tại được quy định trong Nghị định “ĐIỀU LỆ CẢNH HÀM CẢNH SÁT NHÂN DÂN NƯỚC CHND TRUNG HOA” (中华人民共和国人民警察警衔条例, Trung hoa Nhân dân Cộng hòa quốc nhân dân cảnh sát cảnh hàm điều lệ, Zhōng huá Rén mín Gòng hé guó rén mín jĭng chá jĭng xián tiáo lì) ngày 01/7/1992. Theo đó cảnh hàm của Cảnh sát nhân dân có 13 cấp 十三级 , thụ phong một cách tương ứng cho chức vụ mà người Cảnh sát đảm nhiệm. Trừ Bộ trưởng và các Thứ trưởng còn cấp Cục (thuộc Bộ và đứng đầu các tỉnh), Phòng (thuộc Cục, Trường, Sở Công an, lãnh đạo CA cấp huyện), Đội (thuộc Phòng) được phong trong khoảng 2-3 mức Cảnh hàm với nguyên tắc cấp Phó bằng hoặc thấp hơn cấp trưởng một mức. 13 cấp Cảnh hàm gồm :
1- Tổng cảnh gíam 总警监, phong cho Bộ trưởng;
Phó Tổng cảnh giám 副总警监, phong cho các Thứ trưởng; Cảnh hàm cấp này có hình 2 bông lúa mạch bao quanh Quốc huy, áo mầu trắng.
2- Cảnh gíam 警监 (nhất cấp , nhị cấp , tam cấp) thường xếp cho cấp lãnh đạo Cục[2]. Cảnh hàm cấp này có hình 3, 2, 1 bông mai 4 cánh xếp dọc phía trước hình 2 bông lúa mạch và mặc áp mầu xanh lơ;
3- Cảnh đốc 警督 (nhất cấp , nhị cấp , tam cấp). Cảnh hàm cấp này có hình 3, 2, 1 bông mai 4 cánh xếp dọc phía trước hình 2 gạch ngang;
4- Cảnh ti 警司(nhất cấp , nhị cấp , tam cấp) Cảnh hàm cấp này có hình 3, 2, 1 bông mai 4 cánh xếp dọc phía trước hình 1 gạch ngang ;
5- Cảnh viên 警员 (nhất cấp , nhị cấp) .Cảnh hàm cấp này có hình 2, 1 bông mai 4 cánh xếp dọc.
Chuyên viên kỹ thuật được phong tùy cấp độ, theo đó:
- Cao cấp sẽ xếp Nhất cấp Cảnh giám đến Nhị cấp Cảnh đốc;
- Trung cấp sẽ xếp Nhất cấp Cảnh đốc đến Nhị cấp Cảnh ti;
- Sơ cấp sẽ xếp Nhất cấp Cảnh ti đến Nhị cấp Cảnh viên.
Lực lượng Cảnh sát vũ trang phong Cảnh hàm như Quân hàm Quân đội[3].

4.1.5. Các Bộ trưởng:Trải 60 năm lịch sử, Bộ Công an Trung Quốc đã qua 12 đời Bộ trưởng và hầu như đều là thành viên của Bộ Chính trị (中央政治局委员,zhōng yāng zhèng zhì jú wĕi yuán); Danh sách các Bộ trưởng 历任部长 như sau:
- La Thụy Khanh (罗瑞卿, luó ruì qing, 1949-1959), sau thăng chức Phó Thủ tướng 国务院副总理, Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương 国防委员会副主席;
- Tạ Phú Trì (谢富治, xiè fù zhì, 1959-1972), cũng giữ chức Phó Thủ tướng;
- Lý Chấn Hà (李震 河, lĭ zhèn hé, 1972-1973);
- Hoa Quốc Phong (华国锋, huá guó feng, 1973-1977), sau được bầu là Chủ tịch Đảng 中共中央主席, Thủ tướng Chính phủ 国务院总理 và Chủ tịch Quân ủy 中共中央军委主席’
- Triệu Thương Bích (赵苍壁, zhào cang bì, 1977 -1983);
- Lưu Phục Chi (刘复之, liú fù zhi 1983-1985), sau chuyển làm Viện trưởng (检察长, jiăn chá cháng) Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (最高人民检察院, zuì gao rén mín jiăn chá yuàn);
- Nguyễn Sùng Vũ (阮崇武, ruăn chóng wŭ, 1985-1987);
- Vương Phương Sơn (王芳山, wáng fang shan, 1987-1990);
- Đào Tứ Câu (陶驷驹, táo sì ju, 1990-1998), sau chuyển Phó Chủ tịch Uỷ ban tư pháp (全国人大内务司法委员会副主任委员, quán guó rén dà nèi wù si fă wĕi yuán huì fù zhŭ rèn wĕi yuán);
- Cổ Xuân Vượng (贾春旺, jiă chun wàng, 1998-2002) sau giữ chức: Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
- Chu Vĩnh Khang (周永康, zhou yǒng kang, 2002-2007) sau là Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị (中共中央政治局常委), Bí thư Ủy ban Chính pháp (中央政法委员会书记);
- Mạnh Kiến Trụ (孟建柱, mèng jiàn zhù, từ 2007)[4]. Ông có 6 Thứ trưởng 副部长 giúp việc là : Lưu Kinh 刘京, Dương Hoán Ninh 杨焕宁, Lưu Kim Quốc 刘金国, Mạnh Hoành Vĩ 孟宏伟, Trương Tân Phong 张新枫, Lưu Đức 刘德.Theo trang Web của Bộ Công an Trung Quốc 中华共咊人民国公安部 thì cơ cấu của Bộ Công an có khác đôi chút, như đã đăng trước đây.
-*-

[1] Bộ An ninh quốc gia của Trung Quốc (中华人民共和国国家安全部,Zhōng huá Rén mín Gòng hé guó guó jia an quán bù) thành lập tháng bảy năm 1983 trên cơ sở thống nhất các đơn vị làm công tác Tình bálo, Phản gián của Công an, Quân đội, cơ quan Đảng, Ngoại giao lại. Bộ này cũng có chức năng làm công tác an ninh trong nước nhưng chủ yếu thực hiện công tác tình báo, phản gián ở nước ngoài. Bộ An ninh có 17 Cục và 3 Văn phòng. Cho đến nay đã qua 4 đời Bộ trưởng. Bộ trưởng đầu tiên là Lăng Vân (凌云, Líng Yún, 1983 -1985), đương nhiệm là Cảnh Huệ Xương (耿惠昌, Gĕng Huì Chang, từ 8/2007).[2] Nhiều trường hợp tuy chỉ giữ cương vị lãnh đạo cấp Phòng nhưng nếu được công nhận là Chuyên viên cao cấp thì được xếp là Cảnh giám bậc cao tương đương lãnh đạo cấp Cục.[3] Từ năm 1955 đến năm 1965, quân hàm Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc gồm có 6 cấp 20 bậc, với tên gọi chung cho cả 3 quân chủng Lục quân, Hải quân và Không quân. Trong đó có cấp Nguyên soái 元帅 và Đại tướng 大 将.
Năm 1965 hệ thống quân hàm bị hủy bỏ và chỉ được khôi phục lại vào năm 1988 với 4 cấp 13 bậc. Sau một vài lần sửa đổi, hiện nay hệ thống quân hàm trong Quân đội Trung Quốc gồm 5 cấp 20 bậc, tên gọi cũng dùng chung cho cả 3 quân chủng Lục quân, Hải quân và Không quân. Thượng tướng cấp 1 (一級上將, Nhất cấp Thượng tướng , Yi Ji Shang Jiang) với 4 sao chỉ tồn tại từ năm 1988 đến năm 1994. Quân hàm sĩ quan (Quân quan quân hàm 军官军衔) gồm 3 cấp 10 bậc:
1. Cấp tướng (Tướng quan 将官):
-Thượng tướng 上将. Thượng tướng thường đảm nhiệm các chức vụ Phó Chủ tịch hoặc ủy viên Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Tư lệnh Đại quân khu. - Trung tướng 中将. Trung tướng thường đảm nhiệm các chức vụ Tư lệnh hoặc Phó Tư lệnh Đại quân khu, Quân đoàn trưởng. - Thiếu tướng 少将. Thiếu tướng thường đảm nhiệm các chức vụ Phó Tư lệnh Đại quân khu, Quân đoàn trưởng hoặc Quân đoàn phó, Sư đoàn trưởng.
2. Cấp tá (Hiệu quan 校官):
- Đại tá (Đại hiệu 大校). Đại tá thường đảm nhiệm các chức vụ Quân đoàn phó, Sư đoàn trưởng hoặc Sư đoàn phó, Lữ đoàn trưởng. - Thượng tá (Thượng hiệu 上校). Thượng tá thường đảm nhiệm các chức vụ Sư đoàn phó, Lữ đoàn trưởng hoặc Lữ đoàn phó, Trung đoàn trưởng. - Trung tá (Trung hiệu 中校). Trung tá thường đảm nhiệm các chức vụ Trung đoàn trưởng hoặc Trung đoàn phó, Lữ đoàn phó, Tiểu đoàn trưởng. - Thiếu tá (Thiếu hiệu 少校). Thiếu tá thường đảm nhiệm các chức vụ Trung đoàn phó, Tiểu đoàn trưởng hoặc Tiểu đoàn phó.
3. Cấp úy (Úy quan 尉 官):
- Thượng úy 上尉. Thượng úy thường đảm nhiệm các chức vụ Tiểu đoàn phó, Đại đội trưởng hoặc Đại đội phó. - Trung úy 中尉. Trung úy thường đảm nhiệm các chức vụ Đại đội trưởng hoặc Đại đội phó, Trung đội trưởng. - Thiếu úy 少尉. Thiếu úy thường đảm nhiệm chức vụ Trung đội trưởng.
Quân hàm hạ sĩ quan và binh lính (Sĩ binh quân hàm 士兵军衔) có 2 cấp 8 bậc.
1. Cấp sĩ (Sĩ quan 士 官):
Hạ sĩ quan bậc 6 (Lục cấp sĩ quan 六级士官) -Hạ sĩ quan bậc 5 (Ngũ cấp sĩ quan 五级士官) - Hạ sĩ quan bậc 4 (Tứ cấp sĩ quan 四级士官) - Hạ sĩ quan bậc 3 (Tam cấp sĩ quan 三级士官) - Hạ sĩ quan bậc 2 (Nhị cấp sĩ quan 二级士官) - Hạ sĩ quan bậc 1 (Nhất cấp sĩ quan 一级士官)
2. Cấp binh lính (Binh 兵):
Binh nhất (Thượng đẳng binh 上等兵) - Binh nhì (Liệt binh 列兵)
[4] Bộ trưởng đương nhiệm có Cảnh hàm là Tổng Cảnh giám (总警监) sinh tháng 7/1947 tại thành phố Tô Châu tỉnh Giang Tô vốn là Kỹ sư Cơ khí đã có bằng Thạc sĩ, Cao cấp Kinh tế. Hiện là Ủy viên Trung ương Đảng CSTQ, Bí thư Đảng ủy Bộ Công an, Chính ủy Cảnh sát Vũ trang…

TRÔNG NGƯỜI MÀ NGẪM ĐẾN TA

Nhấn tiêu đề đọc toàn văn ...

Tin đoàn CAVN tập huấn tại Bắc Kinh trên TRANG WEB CỦA TRUNG TÂM GIÁM ĐỊNH VẬT CHỨNG BỘ CÔNG AN TQ

Trung Quốc đăng tin về việc Đoàn tôi sang học bên nước bạn:
中华人民共和国公安部物证鉴定中心-第六期中国与越南刑侦技术

Nhấn tiêu đề đọc toàn văn ...

6.3. Thăm VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH


听说长城万里长, Nghe nói Trường Thành dài vạn dặm,
头连东海尾西疆。 Nối từ Đông hải tới Tân Cương.
几千百万劳动者, Hàng bao nhiêu triệu người lao động,
建筑斯城镇一放. Xây đắp thành này trấn một phương.
(詠萬里長城 -胡志明) (Vịnh Vạn lý trường Thành-Hồ Chí Minh)
Vào dịp học tập tại đây, ngày 07/6/2009 chúng tôi đã thử làm Hảo hán" nhưng rủi nỗi gặp trời mưa nên không mãn nguyện.


Vạn Lý Trường Thành (chữ Hán: 万里长城; Bính âm: Wànlĭ Chángchéng; chữ Anh: Great Wall; có nghĩa là "Thành dài vạn lý", trong đó 里 tức là dặm[1] cỡ 360 bước) là bức tường thành nổi tiếng của Trung Quốc liên tục được xây dựng bằng đất và đá từ thế kỷ 5 tCn cho tới thế kỷ 16, để bảo vệ Đế quốc Trung Quốc khỏi những cuộc tấn công của người Mông Cổ, người Turk, và những bộ tộc du mục khác đến từ những vùng hiện thuộc Mông Cổ và Mãn Châu.

Khởi đầu Trường thành được xây dựng từ thời Chiến Quốc (戰國時代, Zhànguó Shídài, 420 – 211 tCn). Thời đó, các nước Yên 燕, Triệu 趙, Tần 秦, Tề 齊, Sở 楚, Hàn 韓 xưng bá, xảy ra chiến tranh liên miên, để phòng chống nhau, Yên, Triệu, Tần lợi dụng những dải núi ở gần biên giới để xây cất Trường Thành đã chọn những nơi hiểm yếu nhất để xây thành những ngăn chặn sự xâm lấn của các lân bang, đặc biệt là của bộ tộc Hung Nô, người Turk và những bộ tộc du mục khác.


-Tường thành của nước Yên ở phía Tây, bắt đầu xây dựng ở Tạo Dương (nay là Độc Thạch Khẩu, Hà Bắc) đến Liêu Đông ở phía Đông.
- Tường thành của nước Triệu ở phái Tây từ Cao Khuyết (nay là Lâm Hà – khu tự trị Nội Mông) kéo dài đến phía Đông (huyện Úy, Hà Bắc).
- Tường thành của nước Tần từ Lâm Triệu (nay là Cam Túc) qua Cố Nguyên đến tận Hoàng Hà.

Khi thống nhất thiên hạ, Tần Thủy Hoàng (秦始皇, 259 tCn – 210 tCn) đã nối các đoạn tường thành các nước chư hầu đã xây và xây tiếp thành vững chắc, nằm ở phía bắc xa hơn phần Vạn Lý Trường Thành hiện nay của Trung Quốc xây dưới thời nhà Minh (明朝; 1368-1644) và hiện chỉ còn sót lại ít di tích. Thực ra nó không được xây dựng bởi nỗ lực của một nhóm mà là việc ghép nối nhiều đoạn tường thành của các vùng, từng được xây dựng ở thời Chiến Quốc, vào nhau. Bức tường được nối vào nhau ở thời gian đó làm bằng đất nện với những tháp canh được xây ở các khoảng cách đều nhau và nó chỉ dài hơn 5000 Km.Triều đình thực hiện trong hơn 10 năm, bắt hơn 500.000 phu lao động cật lực dưới mưa tuyết và cái lạnh làm nước đóng băng ở miền Bắc, dưới khí hậu khắc nghiệt của miền Tây, qua những tháng này lao động cực nhọc trong hoàn cảnh thiếu thốn đủ mọi thứ, hàng vạn dân phu đã bị vùi xác nơi chân tường thành lại luôn bị nguy hiểm vì có thể bị bọn cướp tấn công. Bởi vì có nhiều người đã chết khi xây dựng thành, nó được đặt cho cái tên khủng khiếp, "Nghĩa địa dài nhất Trái đất". Có lẽ khoảng một triệu công nhân đã chết khi xây dựng bức tường thành.

Bức tường dài tiếp theo được nhà Hán (漢朝, 203 tCn-220), nhà Tùy (隋朝, 581–618) và các nước trong giai đoạn Thập Quốc (907-960) xây dựng tiếp với cùng kiểu thiết kế. Nó được làm bằng đất nện với nhiều tháp canh nhiều tầng được xây cách nhau vài dặm. Nhà Hán còn kéo dài phía Tây Vạn Lý Trường Thành đến Đôn Hoàng, Tửu Truyền tăng thêm hơn 1.000 dặm, đồng thời còn cho xây thêm nhiều ụ chắn, vọng gác ở phía mặt Bắc Trường Thành do nhà Tần xây. Các bức tường thành cũng đã bị hư hại nhiều và đã lẫn vào phong cảnh xung quanh bởi thời gian.
Về mặt quân sự, những bức tường này có ý nghĩa về mặt phân chia ranh giới hơn là công sự bảo vệ có giá trị. Chắc chắn rằng chiến lược quân sự của Trung Quốc không diễn ra quanh việc giữ vững bức tường thành.

Vạn Lý Trường Thành ngày nay thấy rõ được xây ở thời nhà Minh (明朝; 1368-1644), bắt đầu khoảng năm 1368 và kết thúc khoảng năm 1640 với 18 lần xây đắp tu sửa cả. Quy mô to lớn đồ sộ và khả năng phòng ngự kiên cố của Vạn Lý Trường Thành lúc này đã vượt qua hẳn thời kỳ Tần Thủy Hoàng. Trong một đoạn trong kinh Koran, các nhà địa lý Ả Rập cũng liên hệ Alexander đại đế với việc xây dựng tường thành. Bức tường này được xây với tầm vóc to lớn bằng những vật liệu tốt (đá cứng được dùng ở các bề mặt và ở trên đỉnh thành) hơn so với trước đó. Mục đích đầu tiên của bức tường là để ngăn bước những giống người bán du mục phía bên ngoài (như người Mông Cổ dưới sự chỉ huy của hãn vương Altan và Oirats dưới sự chỉ huy của Esen Taiji) vào cướp bóc bên trong Trung Quốc khi họ sử dụng ngựa để di chuyển; hay ngăn cản sự quay trở về của họ với những thứ cướp bóc được.

Đoạn thành này, bắt đầu từ điểm phía đông tại Sơn Hải Quan, gần Tần Hoàng Đảo, ở tỉnh Hà Bắc gần Vịnh Bột Hải. Kéo dài qua chín tỉnh và 100 huyện, 500km cuối cùng vẫn còn nhưng đã thành những đống gạch vụn, và hiện nay nó kết thúc ở điểm cuối phía tây di tích lịch sử Gia Dục Quan (嘉峪关), nằm ở phía tây bắc tỉnh Cam Túc tại biên giới với Sa mạc Gobi và những ốc đảo của Con đường tơ lụa. Gia Dục Quan được xây để tiếp đón những nhà du hành dọc theo Con đường tơ lụa. Mặc dù Vạn Lý Trường Thành kết thúc ở Gia Dục Quan, tại đó có rất nhiều "phong hoả đài" (烽火台) trải dài về phía Gia Dục Quan dọc theo Con đường tơ lụa. Những đài quan sát đó dùng dấu hiệu bằng khói để cảnh báo có xâm lược. Kết quả khảo sát mới nhất cho thấy, đoạn Trường Thành thời nhà Minh bắt đầu chạy từ điểm Hushan, tỉnh Liêu Ninh đông bắc Trung Quốc và kết thúc tại đèo Jiayu ở tỉnh Cam Túc, tây bắc dài 8.851,8km,

Đoạn tường cuối cùng thời nhà Minh thực sự là một công sự quân sự về một số mặt. Tuy nhiên, các nhà sử học quân sự thường gạt bỏ giá trị thực của bức tường thành vĩ đại này. Người ta tốn cực kỳ nhiều tiền của và công sức để xây dựng, duy trì và đóng giữ. Số tiền nhà Minh chi phí vào bức tường này đáng ra có thể để chi vào cải thiện khả năng quân sự khác như mua pháo kiểu châu Âu hay súng trường. Sự thực là bức tường thành không hề có giá trị trong việc giúp ngăn chặn sự sụp đổ của nhà Minh.

Vạn Lý Trường Thành thời Minh chạy qua 10 tỉnh, thành phố, vùng tự trị ở bắc Trung Quốc, gồm: Liêu Ninh, Hà Bắc, Thiên Tân, Bắc Kinh, Sơn Tây, Nội Mông, Thiểm Tây, Ninh Hạ, Cam Túc và Thanh Hải. Các nhà khoa học Trung Quốc đã ó một bức tường dài 6.259,6km; 359,7km rãnh cắt ngang; 2.232,5km hàng rào bảo vệ tự nhiên như các ngọn đồi, con sông. Riêng đoạn trường thành ở Bắc Kinh có chiều dài khoảng 629km, các đoạn Trường Thành Bát Đạt Lĩnh (八达岭,Badaling), Tư Mã Đài (偲马臺,Simatai), Mộ Điền Dụ (暮田吁,Mutianyu) nổi tiếng được bảo tồn tương đối tốt. Đây cũng là 3 địa điểm khách hay viếng thăm.

Người Trung Quốc có câu nói, 不到长城非好汉, có nghĩa "Bất đáo Trường Thành phi hảo hán". Bức tường thành nằm trong các danh sách "Bảy kỳ quan thời Trung cổ của Thế giới và trở thành Di sản thế giới của UNESCO năm 1987.

Gần Bắc Kinh có 3 địa điểm để viếng thăm Vạn Lý Trường Thành là Bát Đạt Lĩnh (八达岭长城 Badaling), Mộ Điền Cốc (Mutianyu) và Tư Mã Đài (Simatai).

Sáng 07/6 sau khi rời căn cứ chúng tôi đến thẳng núi Thái Hà để thăm Vạn Lý Trường thành. Từ Đại lộ đến nơi có “Exit Badaling Great Wall” rẽ vào gặp bãi đỗ xe rộng, gặp ngay trời mưa. Nơi chúng tôi thăm quan là Ðoạn Vạn Lý Trường Thành Bát Ðạt Lĩnh.

Theo tài liệu phổ biến và tìm hiểu được thì đoạn này nằm về hướng Tây Bắc trên dãy núi Thái Hà cách Bắc Kinh 60 km được xây từ năm 1505 thời vua Chính Đức nhà Minh. Bát Ðạt Lĩnh là vị trí chiến lược phòng thủ cho thành Bắc Kinh vì nằm ngay phiá Bắc của đèo Juyongguan, phòng tuyến Bát Ðạt Lĩnh mất, địch quân có thể tràn vào đường đèo mà kéo xuống Bắc Kinh. Nó dài 4.770 mét nằm vắt qua vùng núi trùng điệp nối nhau bằng 19 tháp canh hiện là một đoạn Vạn Lý Trường Thành tiêu biểu thường xuyên được gìn giữ bảo trì.

Vạn Lý Trường Thành Bát Đạt Lĩnh nằm trên cao độ 600 mét, công trình nơi đây gồm có: tường thành, đài thành, phong hỏa đài và tháp canh. Đầu tiên năm 1505 chỉ xây đài thành và phong hỏa đài trên nền cũ tường thành do Tần Thủy Hoàng xây. Ðến năm 1571 xây tiếp những tường thành nối liền các phong hỏa đài lại với nhau tạo thành một dãy tường thành chạy ngoằn ngoèo như con rắn qua các ngọn núi mà mỗi ngọn là một tháp canh. Như vậy, có bốn bộ phận : Tường thành, Dịch đài, Quan ải và Đài phát tín hiệu. Tường thành cao trung bình 7,5 mét, dầy 4 mét, chiều rộng phần đáy 6,5 mét và chiều rộng bên trên 5,8 mét đủ rộng cho 10 quân sĩ dàn hàng ngang hay 6 con ngựa cùng đi một lúc. Vật liệu xây là đá tảng xây tường và gạch nung lót lối đi và chất kết dính làm bằng vôi và mật mía thay thế xi măng. Phiá trên tường thành còn xây thêm mỗi bên một tường thấp cao 1 mét với nhiều lỗ vuông châu mai để đặt súng thần công chống quân địch phiá dưới tràn lên. Mỗi khi quân địch xuất hiện, lính trên tường thành đốt khói bằng phân chó sói (để có nhiều khói và khói bốc thẳng cao) nếu là ban ngày và ban đêm thì đốt lửa vì vậy mà đài đốt lửa phát tín hiệu còn có tên là “Đài khói phân sói”. Từ năm 1468 những ước hiệu đã được đặt ra: một phát súng và một ngọn lửa hay cột khói là báo hiệu có 100 địch quân, 2 phát súng và 2 điểm lửa hay khói là có 500 địch quân và 3 phát súng là hơn 1,000 quân địch. Những phong hỏa đài khi nhận đuợc tín hiệu từ đài bên ngoài liền lập lại và cứ thế như vết loang từ ngoài vào trong và trong vài tiếng đồng hồ tín hiệu báo động có thể truyền đi 500 cây số.

Năm 1900 khi liên quân bát quốc Âu Châu tiến chiếm thành Bắc Kinh, Từ Hy Thái Hậu bôn tẩu về phiá Vạn Lý Trường Thành. Khi tới Bát Ðạt Lĩnh bà trèo lên phóng hỏa đài để nhìn Bắc Kinh mà tiếc nuối cuộc sống xa hoa nhung lụa đã qua. Từ đó một ngọn phóng hỏa đài ở đây được đặt tên là “Bắc Kinh Vọng Thạch”.
Tường thành Bát Ðạt Lĩnh năm 1987 được Liên Hiệp Quốc phong tặng là “Di Sản Văn Hóa Thế Giới” và hàng năm được cấp ngân khoản trùng tu bảo quản từ đó chính quyền mới xây nhà bảo tàng và hệ thống xe cáp treo đưa lên ngọn núi. Giá vé tham quan Bát Ðạt Lĩnh hiện nay là 80 yuan (Công ty Lữ hành trả).

“Cư Dung diệp thúy” là một trong những thắng cảnh đẹp của Vạn Lý Trường Thành. Tiền tiêu Bát Đạt Lĩnh (Badaling) của cửa ải Cư Dung Quan nằm ở địa phận huyện Duyên Khánh. Bát Đạt Lĩnh là một trấn thành trọng yếu trước đây, ở trên cao nhìn xuống, địa thế hiểm trở, người xưa nói : “Cư Dung Quan hiểm yếu không phải là do có cửa ải, mà là dó có dãy Bát Đạt Lĩnh”. Ngày nay vẫn còn hiện rõ hai chữ “Thiên hiểm” do người xưa ghi lại trên dốc núi cao. Bức tường của dãy Bát Đạt Lĩnh được xây dựng bằng loại đá tảng hoa cương, rất vững chắc, thành ải có hai cửa Đông và Tây, cửa phía Đông gọi là “Cư Dung ngoại trấn” (trấn thành phía ngoài ải Cư Dung), cửa phía Tây gọi là “Bắc Môn tỏa thược” (chiếc chìa khoá của cửa thành phía Bắc), cửa này đã bị sụp đổ, sau ngày giải phóng được tu sửa lại.Tường thành cao khoảng 7-8 m và rộng trung bình khoảng 5-6 m.

Hôm chúng tôi tới trời mưa rất to. Mua ô gấp nhỏ mất 20 tệ, Leo qua một Cổng, lên bãi để súng Thần công rồi trèo qua mấy đài quan sát, chụp ảnh với dòng cữ khắc trên đá: 不到长城非好汉 (Bất đáo Trường Thành phi hảo hán) mệt quá xuôi luôn. Hàng lưu niệm ê hề nhưng khá đắt.
-*-
[1] Đây là “Dặm” trong tiếng Hoa, còn trong các ngữ cảnh tiếng Anh hiện nay dặm có thể là: bằng 5.280 feet (khoảng 1.609 m ), hoặc 63.360 inch

Nhấn tiêu đề đọc toàn văn ...

NHỮNG BỨC ẢNH CHỌN TỪ CHUYẾN ĐI sang Trung Quốc











Đang đưa tiếp lên.

Nhấn tiêu đề đọc toàn văn ...

KHÁCH SẠN Ở TRUNG QUỐC

Khi thăm quan Bắc Kinh và Quảng Châu chúng tôi mới có dịp thấy việc ăn nghỉ, phục vụ tại Khách sạn 2 nơi này khác nhau và khác so với ở ta.

6.5. Những ngày ở Bắc Kinh: Khách sạn Kiến quốc 前門建国酒店 (ZENMONKENKOKUHANTEN, Tiền môn kiến quốc tửu điếm, qián mén jiàn guó jiŭ diàn) ở Số 175 đường Vĩnh An, Quận Tuyên Vũ, thủ đô Bắc Kinh phía Tây nam thành phố 北京宣武区永安路175号 (Bắc kinh tuyên vũ khu vĩnh an lộ 175 hiệu, bĕi jing xuan wŭ qu yǒng an lù 175 hào).
Khách sạn này (tên giao dịch: Jianguo Qianmen Hotel 175 Yongan Road, Xuanwu District, Beijing China) được xây dựng từ 1956. Quanh khách sạn có : phía Đông là phố lớn, phía Nam là Công viên Thiên Đàn 天壇公園, phía Bắc là khu phố cổ 琉璃文化街古都…nên thuận tiện cho việc thăm quan. Nơi đây cách ga Tầu hỏa 5 km, cách Sân bay Quốc tế Bắc Kinh 35 km do vậy đi lại cũng dễ.
Phòng khách rộng rãi có đầy đủ trang thiết bị với 407 phòng, nhà hàng, 11 cửa hàng. Đang có một loạt các doanh nghiệp giải trí và các tiện nghi. Đặc biệt có sân khấu ở giếng trời (mái che bằng kính cong) ngay sau phòng Lễ tân và hàng ngày vào 19:00 đều có 30 phút diễn Kinh kịch để 京劇 lưu khách thưởng lãm.
電話 số điện thoại: 010-63016688. 传真Fax: 63035476/63013883.
Chúng tôi ở tầng, mỗi người một phòng 2 giường.

6.9. Khi về Quảng Châu:
Đoàn ở: Khách sạn Đại Hoa Hạ 华厦大酒店 (Hotel Landmark Canton, Hoa hạ đại tửu điếm, huá shà dà jiŭ diàn) ở số 8 đường Kiều Quang, thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông (中国广东广州市侨光路8号, Trung quốc quảng đông quảng châu thị kiều quang lộ 8 hiệu, Zhōng guó guăng dong guăng zhou shì qiáo guang lù 8 hào). Khách sạn toạ lạc ở nơi mà xung quanh có nhiều cảnh đẹp, điểm vui chơi, giải trí và mua bán sầm uất, như : Phố đi bộ Bắc Kinh (北京路步行街), Quảng trưởng Hải Châu (海珠广场), sông Châu Giang (珠江河), Khu bán hàng giảm giá…Đường giao thông đến đây cũng thuận lợi: gần Ga tầu điện ngầm, Ga tầu hỏa (6 km), Sân bay Quốc tế Bạch Vân (35 km) và cạnh bến xe buýt đi Hồng Công, Ma Cao…Với người Việt, một điều có ý nghĩa là khách sạn nằm cạnh trụ sở Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại Quảng Châu .
Khách sạn này khai trương năm 1994, được trùng tu năm 2003. Hiện là khách sạn 4 sao thuộc Công ty TNHH Thương mại quốc tế Huaxia Holding Ltd, gồm 39 tầng với 566 phòng, căn hộ cao cấp và một vạn mét vuông diện tích văn phòng, Kinh doanh Câu lạc bộ…Phòng nghỉ đủ tiện nghi, có thể liên lạc trực tiếp với quốc tế bằng trực tiếp quay số điện thoại, Ti vi có với 71 kên Trung Quốc. Ngoài ra, có đường truy cập Internet miễn phí trong tất cả các phòng.
Khách sạn đã đạt là một trong "100 khách sạn tốt nhất trong cả nước" 100最好的酒店在该国 và danh hiệu "Khách sạn cạnh tranh Cúp chất lượng dịch vụ tốt nhất" 中国旅游饭店杯竞争中的服务质量是最好的 và vinh dự khác.
Địa chỉ liên lạc:
电话 (Điện thoại): (0086) 020-83355988
传真 (Fax): 020-83336197
Web: www.hotel-landmark.com.cn
Đoàn Việt Nam được bố trí tại tầng 23, tôi ở phòng 2306, phòng đầy đủ các quy mô lớn đổi mới, xây dựng từ bên ngoài vào trang trí nội thất bố trí cho một cảm giác hoàn toàn mới xem xét, làm đầy với một ý thức sâu sắc phong cách hiện đại. Đặc tính của sáu Tiếng Trung Quốc và phương Tây thực phẩm và nước giải khát các cửa hàng cung cấp một loạt các món ăn đa dạng. Cả đoàn không ai kịp và đủ khả năng xài các dịch vụ khác: giải trí sân tennis, bóng bàn, bóng bàn phòng, phòng thể dục, hồ bơi nước nóng trong nhà và một phòng tắm hơi, y tế, bưu điện, ngân hàng, các cơ sở giặt ủi và vv .
-*-

Nhấn tiêu đề đọc toàn văn ...

Thăm nơi LÀM VIỆC CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TẠI QUẢNG CHÂU


Trụ sở Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên ( tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản do Nguyễn Ái Quốc thành lập tháng 6.1925) ở 248 đường Văn Minh (Quảng Châu). Nơi này, từ năm 1973, chính quyền Quảng Châu đã cho phục hồi để làm nơi lưu niệm và từ đó luôn được trùng tu, bảo trì. Ngày 27/7/1999 được công nhận là Di tích văn hóa cấp thành phố và được chính thức mở cửa phục vụ khách tham quan

Đây nguyên là 2 ngôi nhà làm bằng gỗ, mang số 13 nay là số 246, 248 đường Văn Minh, thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông (文明路246号及248号). Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô tới Quảng Châu, lấy tên là Lý Thụy 李瑞, làm phiên dịch trong phái đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô bên cạnh Chính phủ Trung Hoa Dân quốc, do Mikhail Markovich Borodin[1] làm trưởng đoàn.

Năm 1925, Người đã tập hợp số thanh niên yêu nước đang có mặt tại Quảng Châu hoạt động một cách có chủ đích. Đồng thời tiến hành cải tổ “Tâm tâm xã[2] (“心心社”) và thành lập: Việt Nam Cách mạng đồng chí Hội (越南青年革命同志会)[3], xúc tiến việc tổ chức các lớp huấn luyện cho thanh niên Việt Nam.

Tại ngôi nhà số 13 đó, phòng phía Đông đầu tầng 3 là nơi Nguyễn Ái Quốc làm việc và nghỉ ngơi; 2 phòng phía Tây cùng tầng được bố trí là phòng học và ký túc xá của học viên. Ngoài việc đích thân soạn, giảng bài Nguyễn còn mời một số nhà Cách mạng Trung Quốc tới giảng bài và nói chuyện, nha Chu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ, Trần Diên Niên (周恩来、刘少奇、陈延年).
Sau khi tổ chức được 3 khóa, do đia điểm chật nên các lớp sau được chuyển đến đường Đại Đông Cao, phố Nhân Hưng 东皋大道仁兴街 tiếp tục công việc đào tạo. Cuốn Đường Kách mệnh, mà ông là tác giả, tập hợp các bài giảng tại các lớp huấn luyện chính trị của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, được xuất bản năm 1927.

Chính các lớp học này đã đào tạo ra hàng chục cán bộ Cách mạng Việt Nam, trong đó có Phạm Văn Đồng, Hoàng Văn Hoan. Học viên sau khi tốt nghiệp, hầu hết quay trở lại Việt Nam hoạt động, một số ít ở Trung Quốc, và sau đó tham gia cuộc khởi nghĩa Liễu-Quảng (了广州起义) và chiến đấu trong các khu Xô viết (和苏区). Đồng thời tại đây, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Nguyễn Ái Quốc, Hội xuất bản tuần báo "Thanh niên", mở các lớp huấn luyện chính trị, cử cán bộ về nước, xuất bản các ấn phẩm tuyên truyền. Hội đặt quan hệ với nước Nga Xô Viết, các tổ chức cách mạng ở Trung Quốc và các nước khác. Từ 1926, VNTNCMĐCH bắt đầu đặt những cơ sở đầu tiên trong nước. Hà Nội, Vinh, Sài Gòn trở thành 3 trung tâm quan trọng, từ đó gây dựng cơ sở khắp đất nước. Năm 1927, các kì bộ lần lượt ra đời, sau đó là tỉnh bộ, thành bộ và cuối cùng là huyện bộ. Năm 1929, cơ cấu tổ chức của Hội gồm 5 cấp được thiết lập và phát triển khắp đất nước. Số lượng hội viên lên tới 1.700 người. Hội đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mac - Lênin trong nhân dân và trở thành hạt nhân lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân chống Pháp. Đến giữa năm 1929, cùng với việc thực hiện phong trào "vô sản hoá", phần lớn các hội viên đã hướng tới việc thành lập một tổ chức cộng sản thay cho VNTNCMĐCH.

Nơi này, từ năm 1973, chính quyền Quảng Châu đã cho phục hồi để làm nơi lưu niệm và từ đó luôn được trùng tu, bảo trì. Ngày 27/7/1999 được công nhận là Di tích văn hóa cấp thành phố.

Từ 1958 đến 1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến Quảng Đông 9 lần, nhiều lần gặp gỡ các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước Trung Quốc, lãnh đạo tỉnh Quảng Đông, thành phố Quảng Châu. Người cũng thăm quan, thăm hỏi nhiều cơ quan, nhà máy, trường học, nông thôn tỉnh Quảng Châu, tiếp xúc rộng rãi với các tầng lớp quần chúng nhân dân và để lại nhiều tình cảm tốt đẹp trong lòng nhân dân tỉnh Quảng Châu.
Khi chúng tôi đến thăm: cô hướng dẫn viên bị viêm họng lại không biết tiếng Việt nên việc hướng dẫn cũng kém hiệu quả .

[1] Mikhail Markovich Borodin (tiếng Nga: Михаи́л Mapkóвич Бороди́н; 1884-1951) là trưởng đoàn trong phái đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô bên cạnh chính phủ Trung Hoa Dân quốc năm 1924 ở Quảng Châu.
Mikhail Markovich Borodin sinh tại Yanovich, Belarus ngày nay và qua đời ở một nơi nào đó tại Siberia. Ông đã gia nhập đảng Bolshevik ở Đế quốc Nga năm 1903. Năm 1907, ông đã bị bắt ông đã chạy qua Mỹ năm 1908. Trong thời gian ở đó, ông đã học tại Đại học Valparaiso. Sau cuộc Cách mạng tháng Mười, ông trở về quê hương vào năm 1918, làm việc tại cục đối ngoại. Từ năm 1919 đến 1922, ông công tác ở Mexico, Mỹ và Anh Quốc với tư cách là một điệp viên của Quốc tế Cộng sản.
Giữa thời kỳ 1923 và 1927, Borodin là đại diện của Quốc tế Cộng sản và của Liên Xô tại chính quyền Quốc dân đảng ở Quảng Châu, Trung Quốc. Ông là cố vấn của Tôn Dật Tiên vào thời đó. Ông đã tiếp tục làm cố vấn chính quyền Quốc dân đảng cho đến năm 1928. Năm 1949, ông bị bắt và bị buộc tội kẻ thù Liên Xô và bị chuyển đến một gulag ở Siberia, nơi ông qua đời hai năm sau đó
[2] Tâm Tâm Xã còn gọi là Tân Việt Thanh niên Đoàn là một tổ chức cách mạng của nhóm thanh niên Việt Nam yêu nước (Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Phạm Hồng Thái, Lâm Đức Thụ... ) thành lập năm 1923 tại Quảng Châu, Trung Quốc với tôn chỉ: "Liên hiệp những người có tri thức trong toàn dân Việt Nam, không phân biệt ranh giới, đảng phái; miễn là có quyết tâm hi sinh tất cả tư ý và quyền lợi cá nhân, đem hết sức mình tiến hành mọi việc để khôi phục quyền làm người của người Việt Nam". Chính tổ chức này, để thức tỉnh đồng bào trong nước và gây thanh thế, ngày 19 tháng 6 năm 1924, đã thực hiện việc mưu sát toàn quyền Đông Dương Merlin tại khách sạn Victoria, Quảng Châu, Trung Quốc. Cuộc mưu sát không thành Merlin chỉ bị thương nhẹ, Phạm Hồng Thái hy sinh. Sự kiện này gây chấn động và làm bừng tỉnh lòng tự hào dân tộc của nhiều người Việt Nam. Ngay nay mộ Liệt sĩ Phạm Hông Thái ở 79 đường Trung Liệt, Công viên Hoàng Hoa Cương (先烈中路79号黄花岗公园内). Sau khi trở thành hạt nhân của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam), năm 1925, Tâm Tâm Xã tự giải tán.[3] Trong số các thành viên lớp đầu có Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong, Vương Thúc Oánh, Trương Vân Lĩnh, Lưu Quốc Phong, Lâm Đức Thụ.
"CHÀO QUẢNG CHÂU-CÔNG XÃ CHÍNH QUYỀN"
-Lương Đức Mến-

Nhấn tiêu đề đọc toàn văn ...