A. LLCA hình thành và phát triển là do nhu cầu của xã hội:
Từ Công xã nguyên thủy chuyển sang chế độ Bộ lạc, rồi Liên minh bộ lạc tiến tới có Nhà nước, xã hội loài người đã hình thành giai cấp và quốc gia. Khi đó lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp và đấu tranh giữa các dân tộc. Các cuộc đấu tranh đó diễn ra dưới hình thức Chiến tranh, mà lực lượng nòng cốt là quân đội. Kết cục của chiến tranh là đầu rơi máu chảy, là hoang tàn đổ nát, là sự bành trướng của dân tộc này, sự đồng hóa hay biến mất của dân tộc khác đồng thời gây những hệ lụy kéo dài về nhiều mặt cho cả 2 phía, trong đó là sự rối loạn về trật tự xã hội đã được thiết lập, ổn định.
Đồng thời với hiện tượng trên, còn một hiện tượng nữa tồn tại ở xã hội có giai cấp, đó là tội phạm và các vi phạm pháp luật. Các hành vi xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội làm nẩy sinh nhu cầu cần thiết làm rõ hành vi nào là tội phạm và tìm ra kẻ phạm tội để trừng phạt, hành vi nào cần giáo dục, răn đe, ngăn ngừa. Để làm được điều đó, những nhà nước Cổ đại dựa vào lời thề, tra tấn buộc phải thú tội và lời khai nhân chứng. Khi xã hội càng văn minh thì nhu cần đó ngày càng phải chính xác và khách quan hơn, để xử lí sao cho “đúng người, đúng tội, đúng pháp luật”. Nhưng sơ khởi việc định tội căn cứ vào ý thức chung và kinh nghiệm thực tế của quan toà hay người đứng ra phân xử.
Mặt khác, trong cuộc sống thường nhật, con người có nhiều mối quan hệ cần điều chỉnh, nhiều quyền lợi về sở hữu, về nhân thân cần được bảo vệ. Tức là rất cần thiết lập sự quản lý trật tự xã hội. Cùng với sự tiến hóa của loài người và sự tiến bộ về tổ chức xã hội, việc điều chỉnh đó cũng tiến dần từ tập tục nâng thành luật tục rồi ra đời các Bộ Luật và các văn bản quy phạm pháp luật. Để duy trì công việc quan trọng đó, nhà nước cần tổ chức lực lượng đại diện cho mình, trong đó có cơ quan làm nhiệm vụ bảo vệ ANQG và giữ gìn TTATXH. Trách nhiệm đó là của toàn bộ hệ thống chính trị quốc gia mà nòng cốt, xung kích trong các công việc đó đặt lên vai một ngành đặc biệt, ở Việt Nam được gọi với thuật ngữ “Công an”. Đó là công cụ chuyên trách của Nhà nước để bảo vệ chế độ và giữ gìn ANTT.
Khẳng định sự ra đời của lực lượng CAND là tất yếu, khách quan, PGS, TS Nguyễn Mạnh Hà, Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tại Hội thảo quốc gia về 70 năm Công an nhân dân Việt Nam do Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Báo Nhân dân, Tạp chí Cộng sản tổ chức tại Hà Nội ngày 24/7/2015 đã nhấn mạnh: “Sự trưởng thành, lớn mạnh của CAND cũng là điều kiện không thể thiếu, đảm bảo cho sự phát triển vững chắc của chính quyền cách mạng, của sự ổn định chính trị, xã hội không chỉ ở giai đoạn mới thành lập mà trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng”[1].
Hiện tại lực lượng công an hoạt động trên cơ sở Luật Công an nhân dân số 37/2018/QH14 được Quốc hội khóa XIV kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 20-11-2018 và Nghị định số 01/NĐ-CP, ngày 06/8/2018 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an... Theo đó :
* “Công an nhân dân là lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.”[2]
* “Công an nhân dân là lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm. Công an nhân dân gồm lực lượng An ninh nhân dân, lực lượng Cảnh sát nhân dân và Công an xã.”[3]
* “Công an nhân dân có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định tại Chương II Luật Công an nhân dân số 37/2018/QH14.
* “Hệ thống tổ chức của Công an nhân dân hiện nay gồm có:
a) Bộ Công an;
b) Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
c) Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
d) Công an xã, phường, thị trấn.”[4]
B. Lược sử bộ máy CAND
Trong 76 năm qua bộ máy CAND đã có nhiều lần đổi tên, thay đổi cơ cấu tổ chức, bộ máy.
Từ những tổ chức tiền thân, tháng 8/1945 cùng với việc ra đời của chính quyền dân chủ, các tổ chức đầu tiên của Công an Việt Nam[5] hình thành.
Khi đó, để có đủ lực lượng đảm nhận công việc bộn bề sau ngày giành chính quyền, Đảng đã tăng cường, bổ sung cán bộ cho Công an. Đó là cán bộ của Đảng, của Mặt trận Việt Minh cử sang; các cán bộ, chiến sĩ Giải phóng quân; các hội viên đoàn thể quần chúng; những thanh niên yêu nước, có tri thức, sức khỏe, nhiệt tình đã từng tham gia các tổ chức cứu quốc lúc bấy giờ và có cả những nhân viên lưu dung. Vì thiếu cán bộ chuyên môn, chưa kịp đào tạo và thực hiện đường lối Đại đoàn kết của Bác Hồ nên một số “nhân viên cũ, hạnh kiểm xứng đáng và có đủ sức khoẻ...” được lưu dung[6] theo Nghị định ngày 24/9/1945 do Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp ký.
Ngày 21/02/1946: Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 23/SL sát nhập các tổ chức Công an đầu tiên thành Việt Nam Công an vụ sau đó Bộ Nội vụ ra Nghị định số 121/NĐ ngày 15/4/1946 quy định về tổ chức của Việt Nam Công an vụ[7] và từ đó công tác cán bộ và tổ chức bộ máy Công an, qua nhiều thời ký dần được thống nhất từ Trung ương tới cơ sở.
Trong những năm kháng chiến, ta tổ chức thành Nha Công an vụ, tiến tới thành lập Thứ Bộ Công an trực thuộc Bộ Nội vụ.
Hòa bình lập lại, đến năm 1959 LLCA được tổ chức vũ trang và bán vũ trang theo biên chế, có phù hiệu và cấp hàm tương tự như quân đội.
Từ 1980, hệ thống tổ chức của Công an nhân dân theo cấp hành chính tức là có: Bộ Nội vụ- Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương- Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh- Công an xã, phường, thị trấn và chia thành hai lực lượng là Cảnh sát Nhân dân và An ninh Nhân dân, thực thi các nhiệm vụ chuyên biệt. Tính chất vũ trang của CAND rõ nét hơn.
Cơ quan quản lý LL CAND Việt Nam là Bộ Công an. Bộ này đã có nhiều lần thay đồi tên gọi[8] và cơ cấu tổ chức. Đáng chú ý các mốc:
- Thực hiện Chỉ thị số 92/CT ngày 25/6/1980 của Ban Bí thư về “xây dựng lực lượng CAND trong sạch, vững mạnh và đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ ANTQ trong tình hình mới” và Nghị quyết 31-NQ/TW ngày 21/12/1980 của Bộ Chính trị về Nhiệm vụ bảo vệ An ninh, Trật tự trong tình hình mới, LLCAND được tổ chức lại theo Nghị định 250/CP ngày 12/6/1981 của Hội đồng Chính phủ về Nhiệm vụ, quyền hạn, Tổ chức bộ máy của lực lượng CAND. Theo đó, cấp trung ương có các Tổng cục, cấp tỉnh các Ban Chỉ huy, các Ty Công an đổi thành Công an tỉnh. Từ 1992, theo Chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, các BCHANND, BCHCSND cấp tỉnh được bãi bỏ. Trên Bộ cấp Tổng cục ANND, CSND vẫn tồn tại được gọi là TCI, TCII.
- Sau đó là Nghị định số 37/1998/NĐ-CP, rồi Nghị định số 136/2003/NĐ-CP, tiếp là Nghị định số 77/2009/NĐ-CP. Chính Nghị định 77/2009/NĐ-CP ngày 15/9/2009 đã đẩy 6 Tổng cục của Bộ Công an (An ninh Nhân dân, Cảnh sát Nhân dân, Xây dựng Lực lượng, Hậu cần, Tình báo, Kỹ thuật) “phình” lên thành 8 Tổng cục (An ninh 1, An ninh 2, Xây dựng Lực lượng, Hậu cần-Kỹ thuật, Tình báo, Cảnh sát Phòng-chống Tội phạm, Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự an toàn xã hội, Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp); nhiều Cục trực thuộc Bộ trưởng.
- Thời gian thực hiện Nghị định 106/2014/NĐ-CP ngày 17/11/2014 Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an thì từ 8 Tổng cục được sáp nhập lại thành 6 Tổng cục (An ninh, Chính trị, Hậu cần-Kỹ thuật, Tình báo, Cảnh sát và Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp); Tổng cục Xây dựng Lực lượng được đổi tên thành Tổng cục Chính trị Công an Nhân dân! Riêng Công an cấp tỉnh chưa có điều chuyển gì lớn, Cảnh sát PCCC thành lập tại một số tỉnh vẫn giữ nguyên.
-Khi triển khai thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 30/10/2017 “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” và Nghị quyết số 06 ngày 26/6/2017 của Đảng ủy Công an Trung ương về chủ trương “Kiện toàn tổ chức bộ máy Bộ Công an tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” cũng như Đề án tổ chức, bộ máy mới do Đảng ủy CATW và lãnh đạo Bộ Công an chuẩn bị được Bộ Chính trị thông qua thì Chính phủ ban hành nghị định mới, Nghị định số 01/NĐ-CP, ngày 06/8/2018 thúc đẩy quá trình sắp xếp lại bộ máy Bộ Công an. Theo đó, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Công an cơ bản không thay đổi, tổ chức bộ máy Bộ Công an được xây dựng tập trung, thống nhất, chuyên sâu theo hướng “Bộ tinh, tỉnh mạnh, huyện toàn diện, xã bám cơ sở”. Cụ thể không còn các Tổng cục, một số Vụ, Cục, Viện, Nhà trường được sáp nhập, sắp xếp lại.
C. Vĩ thanh:
Trong lịch sử 76 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Công an nhân dân Việt Nam đã vinh dự được Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam tặng thưởng ba Huân chương Sao Vàng (1980, 1985, 2000) và nhiều phần thưởng cao quý khác; 571 lượt đơn vị và 291 cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
76 năm qua, chứng minh rõ ràng: CAND Việt Nam là Công an của Nhân dân, từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà phục vụ. Quán triệt tư tưởng của Ðảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trải qua các thời kỳ cách mạng của đất nước, dù trong bất cứ điều kiện hoàn cảnh nào, lúc thuận lợi cũng như lúc khó khăn, lực lượng Công an luôn đoàn kết gắn bó mật thiết với Nhân dân, dựa vào Nhân dân để rèn luyện, chiến đấu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Hiện nay, trong CAND việc thấm nhuần, vận dụng những tư tưởng Tiên tiến, hiện đại, nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào công tác đã thu được nhiều kết quả song cũng bộ lộ một số hạn chế. Trong tình hình mới, những vấn đề đó càng cần được quán triệt sâu sắc, thấm nhuần hơn và vận dụng tốt hơn, có sáng tạo trên một tầm cao mới.
Trong thời gian tới, xây dựng hình ảnh tốt đẹp về người chiến sĩ Công an nhân dân trong lòng Nhân dân để được nhân dân tin yêu “đi dân nhớ, ở dân thương” đã trở thành nhiệm vụ then chốt, xuyên suốt trong công tác xây dựng lực lượng trong sạch, vững mạnh. Bởi lực lượng Công an nhân dân là con em yêu quý của Nhân dân, từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà hy sinh, chiến đấu. Ngược lại, Nhân dân là chỗ dựa vững chắc, là sức mạnh vô tận của công an, như lời Bác sinh thời từng căn dặn: “Khi Nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn”.
-Lương Đức Mến, 15/8/2021-
[1] http://cand.com.vn/thoi-su/Khang-dinh-vai-tro-vi-the-cua-CaNd-trong-su-nghiep-cach-mang-359464/
[2] Điều 3. Vị trí của Công an nhân dân trong Luật Công an nhân dân số 37/2018/QH14.
[3] Điều 4. Vị trí, cơ cấu của Công an nhân dân trong Luật Công an nhân dân số 73/2014/QH-QH13 ban hành quy định về công an nhân dân. Luật này có hiệu lực từ 1/7/2015 được Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng ký lệnh công bố ngày 24/11/2014.
[4] Điều 17. Hệ thống tổ chức của Công an nhân dân trong Luật Công an nhân dân số 37/2018/QH14.
[5] Ngày 25/8/1945 UBND Bắc bộ có quyết định thành lập Sở Liêm phóng và cử đ/c Chu Đình Xương (Trưởng ban Tài chính Xứ uỷ) làm Giám đốc, đ/c Lê Giản làm phó (từ cuối 9/1945). Sở Liêm phóng có 5 bộ phận và phụ trách các phòng là Đảng viên Cộng sản hoặc những cán bộ Cách mạng đã được thử thách qua lao tù đế quốc. Cùng với việc củng cố Sở Liêm phóng, ta đã chú ý củng cố và tăng cường lực lượng Cảnh sát.
[6] Chính sách lưu dung là một chủ trương đúng và cần thiết. Kinh nghiệm này sau 30/4/1975 lại được áp dụng trên một tầm cao mới và thực tế chứng tỏ sự đúng đắn của chủ trương đó.
[7] Thuật ngữ “Công an” du nhập từ TQ sang bởi chữ 公安 có lẽ xuất hiện từ đây để xóa bớt hình ảnh mang nặng tính “đàn áp” của từ “Police” (Cảnh sát 警察) thời Pháp thuộc.
[8] Bộ Công an (thành lập năm 1953), Bộ Nội vụ (từ ngày 06/6/1975 bởi Quyết định của Kỳ họp thứ Nhất Quốc hội Khóa V), sau đó theo Nghị quyết số 13/1998/NQ-QH10 ngày 07/5/1998 lại trở lại tên Bộ Công an.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng nguyên tắc cộng đồng và sở nguyện cá nhân