Lạ một cái, ở xứ “cây tre, cây lúa” này rất lắm Lễ Hội và Ngày Truyền thống nhưng chả mấy ai hiểu cội nguồn của những ngày đó và khá nhiều người, đôi khi cả lãnh đạo (ngành, nghề, địa phương, đơn vị) nhầm lẫn giữa NGÀY TRUYỀN THỐNG và NGÀY THÀNH LẬP!!
Riêng trong LLCA, bị gò bó bởi nhưng quy định BẢO MẬT và do chủ trương LUÂN CHUYỂN CÁN BỘ nên “người trong cuộc” còn lơ mơ nói gì đến tuyên truyền! Do vậy ít người biết đến công việc “thầm lặng toàn cục” và nhận được ít sự cảm thông của chúng dân!
Là hưu nhân, không bị “vướng” bởi những quy định cứng nhắc và xét thấy cũng chả “phạm quy” gì nên nhân Kỷ niệm 64 năm ngày Truyền thống LLKTHS (23/8/1957-23/8/2021), tôi viết bài này, trên cơ sở bài cũ viết nhân 60 NĂM NGÀY TRUYỀN THỐNG LLKTHS CAND (23/8/1957-23/8/2017):
Kỹ thuật hình sự nói riêng và Khoa học hình sự[1] nói chung trên thế giới đã có lịch sử từ lâu đời. Nhưng tại Việt Nam phải tới những năm 1955-1960 thì vai trò của KTHS mới được chính thức ghi nhận. Nhưng biện pháp này đã được chúng ta triển khai ngay từ khi Cách mạng mới thành công và trưởng thành cùng với quá trình vận động của công cuộc kháng chiến kiến quốc, thống nhất đất nước, bảo vệ tổ quốc và xây dựng CNXH. Mặt khác, dưới các chế độ cũ thời quân chủ[2], thời Pháp thuộc hay chế độ Việt Nam Cộng hòa cũng có thực hiện biện pháp này rất khó tìm tư liệu.
Tháng 8/1945 cùng với việc ra đời của chính quyền dân chủ, các tổ chức đầu tiên của Công an Việt Nam hình thành. Khi đó, để có đủ lực lượng đảm nhận công việc bộn bề sau ngày giành chính quyền, Đảng đã tăng cường, bổ sung cán bộ cho Công an[3]. Đó là cán bộ của Đảng, của Mặt trận Việt Minh cử sang; các cán bộ, chiến sĩ Giải phóng quân; các hội viên đoàn thể quần chúng bổ sung; những thanh niên yêu nước, có tri thức, sức khỏe, nhiệt tình đã từng tham gia các tổ chức cứu quốc lúc bấy giờ và có cả những nhân viên lưu dung. Vì thiếu cán bộ chuyên môn, chưa kịp đào tạo và thực hiện đường lối Đại đoàn kết của Bác Hồ nên một số “nhân viên cũ, hạnh kiểm xứng đáng và có đủ sức khoẻ...” được lưu dung[4] theo Nghị định ngày 24/9/1945 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp.
Trong các bộ phận cấu thành lực lượng công an thời đó đã có các đơn vị tiền thân của lực lượng Kĩ thuật hình sự là các Ban Căn cước gồm những CBCS chiếm lĩnh phòng hồ sơ, bộ phận căn cước của Sở Liêm phóng và một số người lưu dung mà tiêu biểu là ông Nguyễn Địch Trung (1909-1984) [5]. Khi đó tổ chức của KTHS được hình thành, là các phòng (ban) căn cước nằm trong Sở Liêm phóng, Sở Cảnh sát Bắc bộ, Sở Trinh sát Trung bộ, Quốc gia tự vệ cuộc Nam bộ và khắp các ty Trinh sát trong cả nước. Đây là những hạt nhân quan trọng cho việc hình thành, hướng dẫn chuyên môn, đào tạo cán bộ và phát triển công tác Kĩ thuật hình sự của Việt Nam.
Ngày 21/02/1946: Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 23/SL sát nhập các tổ chức Công an đầu tiên thành Việt Nam Công an vụ sau đó Bộ Nội vụ ra Nghị định số 121/NĐ ngày 15/4/1946 quy định về tổ chức của Việt Nam Công an vụ[6] thì các Ban căn cước thuộc Ty Chính trị. Đồng thời, ngay trong những ngày trứng nước đó, đã có: Sắc lệnh 68/SL ngày 30/11/1945 và Sắc lệnh số 162/SL ngày 25/6/1946 của Chính phủ về “trưng dụng”, “trưng tập” nhân viên y tế phục vụ công tác điều tra, xét xử. Đó là những văn bản pháp lý đầu tiên có đề cập đến pháp y, giám định pháp y nói riêng và giám định tư pháp nước nhà nói chung.
Nhờ những quyết sách đúng đắn đó nên tuy còn non kém về tay nghề nghiệp vụ nhưng lực lượng KTHS đã lập công lớn ngay buổi đầu. Đó là: sớm làm chủ, khai thác tàng thư của địch để lại tra cứu, phát hiện hàng trăm tên mật thám, tình báo, phản động; cung cấp nhiều tài liệu quan trọng phục vụ cho việc chuẩn bị nhân sự các ứng viên Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam mới. Đặc biệt Qua KNHT và giám định đã góp phần khám phá nhiều vụ án quan trọng, như: vụ giết người, ném xác xuống hồ Trúc Bạch (1946); vụ án cướp của, giết người rất dã man xẩy ra ngày 03/8/1946 tại tiệm vàng Vĩnh Tường của nhà tư sản Nguyễn Thế Toàn ở 33 phố Lacom (nay là phố Hoàng Văn Thụ) Hải Phòng, lực lượng KTHS đã góp công đầu. Chính KNHT, thu và giám định dấu tay để lại trên hộp sơn mài chính xác đã chứng minh được bọn gây ác giết 10 người, cướp của có tên Jean Jacque Presil, George (tây lai) và tên Yến là tay sai đóng ở trại Lạc Viễn, Hải Phòng gây ra. Việc này buộc Pháp phải thừa nhận, đánh dấu bước khởi đầu tốt đẹp của KTHS Công an Việt Nam.
Trong những năm kháng chiến kiến quốc, cả nước được chia làm 12 Khu, các cơ quan đầu não đã tạm rời Thủ đô lên ATK Việt Bắc. Lúc này lực lượng KTHS phải tận dụng các công cụ thô sơ để bảo quản và vận chuyển căn cước, tài liệu, phương tiện lên ATK vừa khai thác phục vụ công tác đánh địch, vừa trực tiếp thực hiện bảo mật phòng gian, tham gia phá án, chống càn.
Mặc dù bận bao việc của kháng chiến gian khổ, năm 1948 Ty Tuyên- Nghiên - Huấn đã cho xuất bản cuốn Khoa dấu vết (tập 1) và Tả nhân dạng (tập 2), tiếp năm 1949 cho ra đời cuốn Khoa điểm chỉ và 1950 là cuốn Khoa tả nhận dạng phổ thông. Đây là những tài liệu đầu tiên đặt nền móng cho việc đào tạo cán bộ. 110 nhân viên căn cước được đào tạo tại Tuyên Quang sau này trở thành hạt nhân công tác KTHS các địa phương.
Ngày 15/01/1950 tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ V, lần đầu tiên Đề án về căn cước đã được đề cập cả về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ. Hội nghị đã xác định: “Cần phải chấn chỉnh lại tổ chức và hoạt động để chuẩn bị cho thời bình và có đủ điều kiện thuận lợi để phát triển, làm tròn nhiệm vụ của nó…”. Theo định hướng đó, ngày 02/9/1950 Liên bộ Tư pháp-Nội vụ ra Thông tư liên bộ số 1909-VHC về theo dõi lý lịch căn cước bị can và người bị tình nghi, giao cho các Phòng căn cước lập căn cước người bị bắt.
Ngày 12/5/1951 Ban Bí thư TW Đảng ra Chỉ thị số 05-CT/TW về nhiệm vụ và tổ chức Công an. Năm 1952 Ban Bí thư TW Đảng ra Nghị quyết số 26-QN/TW ngày 23/11 về công tác Công an, Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 7 (22-29/8) đã ra 7 kết luận về công tác Công an đều nói đến điều tra và việc lập căn cước, coi đó là một nhiệm vụ quan trọng của Công an.
Ngày 16/02/1953 Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh số 141/SL đổi Nha CA thành Thứ Bộ Công an trực thuộc Chính phủ do đ/c Giám đốc Nha Công an Trần Quốc Hoàn làm Thứ trưởng. Ngày 27-29/8/1953 Hội đồng Chính phủ ra Nghị quyết đổi Thứ Bộ Công an thành Bộ Công an[7] mà trong mô hình có bộ phận điều tra được gọi là Vụ Chấp pháp. Những năm 1951-1954 mô hình tổ chức CA đã có đến cấp xã, do đó công tác điều tra cũng được nề nếp hơn, các Ty đều có Tổ điều tra thuộc Ban trị an hành chính. Khi đó, bộ phận KTHS gọi là Phòng Căn cước (Phòng 5) và nằm trong Vụ Trị an hành chính. Các địa phương là bộ phận trực thuộc Ban Trị an hành chính.
Cũng từ đây lực lượng Công an cùng quân dân cả nước bước vào trận Tổng phản công cuối cùng, kết thúc cuộc kháng chiến 9 năm. Trong giai đoạn này, tiền thân của KTHS là bộ phận căn cước đã có những bước tiến và đóng góp đáng kể, đặt những viên gạch đầu tiên cho hệ thống các văn bản pháp quy về KTHS sau này. Đây là thời kỳ mà lực lượng KTHS toàn quốc đã cố gắng vừa XDLL, vừa học, vừa làm đóng góp nhất địch vào thành tích chung. Cụ thể đã góp phần khám phá thành công vụ tham ô ở Cao Bằng, Hà Giang, Công ty Hải Lạng…; phối hợp với lực lượng điều tra quân đội phá vụ án tham ô của Cục trưởng Quân nhu Trần Dụ Châu. Những chiến công xuất sắc đó đã đánh dấu sự trưởng thành của lực lượng CAND Việt Nam trong đấu tranh chống bọn phản động, các cơ quan tình báo, gián điệp Pháp và can thiệp Mỹ được huấn luyện cẩn thận và trang bị đầy đủ, chống bọn tha hoá, lưu manh. hay những vụ buộc người trong lực lượng làm sai, sa đoạ, biến chất đến vi phạm pháp luật như Giám đốc CA Khu III Nguyễn Đình Điền, Trưởng Ty CA Hà Nam Đặng Trần Dương…phải trả giá.
Sau khi miền Bắc giải phóng, ngày 22/11/1954 Phòng Căn cước từ Chiến khu chuyển về 87 Trần Hưng Đạo và hệ thống tàng thư căn cước đã được xây dựng thống nhất từ Trung ương xuống địa phương.
Để đẩy mạnh công tác KHHS đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn Cách mạng mới, ngày 21, 22, 23/8/1957 Bộ Công an tổ chức Hội nghị Kĩ thuật hình sự lần thứ Nhất tại Hà Nội và ra Nghị quyết XH-50 dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn. Những khái niệm cơ bản nhất, những nhiệm vụ trọng tâm về KHHS, về KTHS đã được chính thức đề cập, xác định “Công tác kĩ thuật khoa học hình sự chính là một trong những biện pháp nghiệp vụ kĩ thuật rất quan trọng của ngành Công an”. Đồng thời xác định: “KTHS gồm 7 mặt công tác lớn là: Lập căn cước can phạm; Tham gia lập và cấp Giấy chứng minh cho nhân dân; Xây dựng tàng thư Danh, Chỉ bản; Tích lũy án tích; Truy nã, đình nã; Công tác KNHT; Huấn luyện và đào tạo cán bộ”. Đây là văn bản chính thức đầu tiên của CAND về xây dựng lực lượng, xác định phương hướng, tư tưởng chỉ đạo cho công tác KHHS.
Hiện nay một số luận điểm tại Nghị quyết không còn phù hợp nhưng khi đó Nghị quyết thực sự trở thành cẩm nang để các địa phương, đơn vị xác định phương hướng xây dựng ngành, tiến hành biện pháp công tác KTHS, là tiền đề cho sự phát triển của KHHS trong các giai đoạn sau.
Chính vì ý nghĩa quan trọng đó của Hội nghị này mà tháng 6/1998, Bộ trưởng BCA Lê Minh Hương đã nhất trí, sau đó ngày 02/4/2002, Bộ trưởng Lê Hồng Anh đã ký Quyết định chính thức lấy ngày 23 tháng 8 hằng năm làm Ngày Truyền thống của lực lượng KHHS Việt Nam.
Khi thực hiện Nghị định 250/CP ngày 12/6/1981 của Hội đồng Chính phủ về Nhiệm vụ, quyền hạn, Tổ chức bộ máy của lực lượng CAND thì Viện KHHS trực thuộc Tổng cục Cảnh sát nhân dân (Mật danh C21) có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo Quyết định số 87/QĐ/BNV ngày 20/12/1981 của Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Hùng, với trụ sở đóng rải rác khắp Hà Nội: Trần Bình Trọng, Quan Thánh, Khương Thượng...và trụ sở chính thức tại Gia Khánh, Tam Đảo, Vĩnh Phúc[8]. Ngày 10/7/1981, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) đã ra Quyết định thành lập phòng KTHS đầu tiên ở một số Công an tỉnh và thành phố trong cả nước. Từ đó, lực lượng KTHS trở thành hệ nghiệp vụ của lực lượng Công an[9].
Thực hiện Nghị quyết đó, hơn 60 năm qua cùng với sự trưởng thành của toàn lực luợng CAND, KHHS ngày càng tỏ rõ vai trò to lớn trong đấu tranh phòng, chống tội phạm giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Trong đó, ngoài Bộ Trưởng đầu tiên là Trần Quốc Hoàn thì Bộ trưởng Bùi Thiện Ngộ (1929–2006, Bộ trưởng giai đoạn: 1991 – 1996) là những Bộ trưởng quan tâm thực chất và có công đầu xây dựng ngành KHHS.
[1] Trên Bộ, gọi là “Viện” (không phải Cục như các đơn vị nghiệp vụ khác) và mang tên “Khoa học hình sự” còn ở dưới tỉnh là “phòng” và mang tên “Kỹ thuật hình sự” do vậy danh xưng không thống nhất, người gọi KTHS, người bảo KHHS, người nói KTHHHS, người thì kêu là KHKTHS!
[2] Chế độ quân chủ (H: 君主制; A: Monarchy; P: Monarchie) hoặc quân chủ chế hay còn gọi là Chế độ quân quyền, là một thể chế chính quyền mà trong đó người đứng đầu nhà nước là nhà vua hoặc nữ hoàng.. Chế độ (H: 封建, tức phong tước, kiến địa; A: Feudalism; P: Féodalité, tức “lãnh địa cha truyền con nối”) phản ánh một giai đoạn, một thời kỳ hay là một hình thái của chế độ quân chủ. Như vậy, thực chất trong lịch sử Việt Nam không tồn tại chế độ phong kiến theo đúng nghĩa
[3] Ngày 25/8/1945 UBND Bắc bộ có quyết định thành lập Sở Liêm phóng và cử đ/c Chu Đình Xương ( Trưởng ban Tài chính Xứ uỷ ) làm Giám đốc, đ/c Lê Giản làm phó (từ cuối 9/1945). Sở Liêm phóng có 5 bộ phận: Văn phòng, Phòng Chính trị (gồm Ban Trinh sát Chính trị, Ban Xét hỏi); Phòng Tư pháp-Hình sự (có Ban Trinh sát Hình sự, Ban Xét hỏi); Phòng Quản trị Trại giam; Phòng Hành chính Ngoại vụ; Phòng Căn cước. Phụ trách các phòng là Đảng viên Cộng sản hoặc những cán bộ Cách mạng đã được thử thách qua lao tù đế quốc: Bùi Đức Minh, Phạm Văn Tạo, Nguyễn Văn Nội và Lê Hữu Qua. Cùng với việc củng cố Sở Liêm phóng, ta đã chú ý củng cố và tăng cường lực lượng Cảnh sát. Đ/c Nguyễn Huy Khôi được cử làm Trưởng Ty. Các tỉnh giành được chính quyền thành lập Ty Liêm phóng, Ty Cảnh sát.
[4] Chính sách lưu dung là một chủ trương đúng và cần thiết. Kinh nghiệm này sau 30/4/1975 lại được áp dụng trên mọt tầm cao mới và thực tế chứng tỏ sự đúng đắn của chủ trương đó. Cho đến nay, ngoài những sinh viên tốt nghiệp các nhà trường, học viện trong ngành ra , LLCA vẫn thường xuyên được tăng cường, bổ xung cán bộ từ nhiều nguồn. Trong đó đặc biệt là cán bộ KHKT. Những cán bộ này, sau khi được tập huấn, đào tạo về nghiệp vụ Công an đã thực sự có những đóng góp quan trọng cho công tác chiến đấu, đảm bảo chiến đấu và XDLL của CAND, đặc biệt KTHS. Từ đó đặt ra vấn đề đoàn kết trong CA lại càng quan trọng, trở thành cái cốt tử đảm bảo cho thắng lợi.
[5] Ông làm việc trong hệ thông TTCC từ 1930. Sau 8/1945 ông được lưu dung làm Phó phòng Can cước. Khi thành lập Cục Trinh sát kĩ thuật ông được giao là Trưởng phòng KTHS.
[6] Thuật ngữ “Công an” du nhập từ TQ sang bởi chữ 公安 có lẽ xuất hiện từ đây để xóa bớt hình ảnh mang nặng tính “đàn áp” của từ “Police” (Cảnh sát 警察) thời Pháp thuộc.
[7] Bộ trưởng đầu tiên Trần Quốc Hoàn (1916-1986) là Bộ trưởng giữ cương vị này liên tục dài nhất: từ 1953 đến 1980. Đây là một trong những vị Bộ trưởng quan tâm thực chất và có công đầu xây dựng ngành KHHS.
[8] Đó là Trụ sở đầu tiên của Viện KHHS do CHDC Đức giúp xây dựng và trang bị nhưng hầu như chả mấy phòng nghiệp vụ ở và làm việc!. Sau này là ở 99 Nguyễn Tuân, quận Thanh Xuâ và từ 19/8/2021 là ở xã Xuân Phương, Nam Từ Liêm!
[9] Đó cũng là dịp mà 20 người chúng tôi Tốt nghiệp ĐHQY. Trong khi Bộ chưa phân công công tác thì Tiến sĩ Nguyễn Văn Hùng xin chúng tôi về Pháp y. Khi chúng tôi được đưa về Viện thì P11 (Phòng Pháp y-Sinh vật) ít Đảng viên nên số Đảng viên mới từ Đại học Quân y về trở thành đông đảo. Ngoài số nam giới làm Pháp y, Phòng còn có các chị Hồng, Vân làm sinh vật. Khi chụp ảnh làm GIẤY RA VÀO thấy biển đề “Phòng CCCP” cứ nghĩ là phòng Liên Xô (Союз Советских Социалистических Республик ) ai dè đó là “Căn cước can phạm”!
Chúng tôi được bố trí ở Nhà khách Bộ (17 Nguyễn Thượng Hiền) và học những bài đầu tiên về KHHS, về Pháp y. Đây là Lớp Chuyên khoa BS Pháp y đầu tiên trong nước của ngành. Khai giảng 20/4. Ngoài 20 BSQY ra còn có anh Tư Đông của CA Tiền Giang, và 2 Bs của Hà Nội. Học ngay trong Hội trường của Nhà khách và trong phòng ảnh, phòng làm việc của các phòng nghiệp vụ của Viện khi đó ở khắp Hà Nội. Ngoài học lí thuyết có thực tập ở Bạch Mai, Việt Đức. Tới 31/8 bế giảng. Giấy chứng nhận của tôi số 00019/PY do Đại tá Lê Quân kí ngày 30/8/1981. Có nhiều kỉ niệm hay khi học chụp ảnh và mổ tử thi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng nguyên tắc cộng đồng và sở nguyện cá nhân