Biển Đông東海 là tên Việt
Nam khi nói đến vùng biển (phía Đông nước
Việt Nam) có tên quốc tế là South China Sea (Anh ngữ) hay Mer de Chine méridionale (Pháp ngữ) nghĩa là biển Nam Trung Quốc (南中国海,
biển ở phía Nam nước Trung Quốc). Đây là một biển rìa lục địa và là
một phần của Thái Bình Dương, trải rộng từ Singapore tới eo biển Đài Loan và
bao phủ một diện tích khoảng 3.447.000 km². Nó là biển lớn thứ tư trên thế giới
sau biển Philippines, biển San Hô và biển Ả Rập. Vùng biển này và các quần đảo
của nó là đối tượng tranh chấp và xung đột giữa nhiều quốc gia trong vùng, đặc biệt là giữa Việt Nam (ở phía Tây) và Trung Quốc (ở phía Bắc).
Ngược dòng lịch sử ta thấy Trung Quốc từng có nhiều danh xưng để
gọi vùng biển này. Hồi đầu Công nguyên họ gọi là Giao Chỉ dương交 趾洋, nghĩa là biển Giao Chỉ, rồi “Trướng Hải” 漲海 hay “Phí Hải” 沸海đến thời Đường (唐朝, 618–907) khi cai trị
và đổi nước ta thành An Nam đô hộ Phủ安南都護府mới dần dần đổi vùng biển đó sang gọi là “Nam Hải” 南海.
Trong khi đó, người Việt đã biết đến danh xưng Biển Đông từ rất
lâu. Ví như dân gian có: “Thuận vợ thuận chồng Biển Đông tát cạn”, “Vượt bể
Đông có bè có bạn, Mẹ sinh ta vượt cạn một mình”, “Dã tràng xe cát biển Đông, Nhọc
mình mà chẳng nên công cán gì”,… hoặc
trong khi chúc Thọ. cổ nhân hay dùng câu: “福如東海; 壽比南山” (Phúc như
Đông Hải, Thọ tỷ Nam sơn),…
Trong Bình Ngô đại cáo平吳大誥, Nguyễn Trãi (阮廌, 1380-1442) đã viết: “決東海之水不足以濯其污” (Quyết Đông Hải
chi thủy bất túc dĩ trạc kỳ ô) tức “Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa
sạch mù”. Sau này, trong cuốn Hoàng Việt
địa dư chí皇越地輿誌, Phan Huy Chú
(潘輝注, 1782-1840) viết: “東臨大海đông lâm đại hải”, tức phía
Đông nước ta giáp biển lớn.
“Biển Đông” còn gắn với chuyện
về một nữ tướng lừng danh chống ngoại bang phương Bắc từ thế kỷ III.
Nói đến lịch sử chống ngoại xâm trong thời kỳ Bắc thuộc (北屬時代,43-938), không thể
không kể đến cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu (趙婆起義,246-248). Nữ anh hùng này còn gọi là Triệu Trinh Nương 趙貞娘 tên thật là Triệu Thị Trinh 趙氏貞 hay Lệ
Hải Bà Vương, sinh ngày 2 tháng 10 năm Bính Ngọ (226) mà người Trung Quốc gọi là Triệu
Ẩu (趙嫗, bà
họ Triệu). Bà là người Quân Yên, quận Cửu Chân九真, nay
thuộc huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa và là em của Triệu Quốc Đạt (趙國達, ? - 248), một hào
trưởng 豪長vùng này.
Năm 246, bà đã cùng anh
trai là Triệu Quốc Đạt dựng cờ khởi nghĩa chống lại nhà Đông Ngô (東吳,229–280) đang đô hộ nước ta khi đó
gọi là Giao Châu (交州, Giao
Province, 203-544).
Sau khi Triệu Quốc Đạt chết (248), bà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống
lại sự xâm lược của quân Đông Ngô, do Lục Dận (cháu của Lục Tốn), thứ sử Giao Châu chỉ
huy. Câu thành ngữ “Lệnh Ông không bằng
cồng Bà” xuất hiện từ việc tiếng Lệnh
của quan huyện Đạt không có hiệu lực tập hợp dân bằng tiếng Cồng của Bà Triệu. Nhiều nghĩa binh đã
tử trận vào năm đó. Bà chống đỡ với quân Đông Ngô được 5-6 tháng thì thua chạy
đến xã Bồ Điền (nay thuộc khu núi Tùng, xã Triệu
Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa) và tự tử. Khi ấy Triệu Thị Trinh mới 23
tuổi. Kể về việc này dân gian có câu:
Ru con con ngủ cho lành,
Để mẹ gánh nước rửa bành con voi.
Muốn coi lên núi mà coi,
Coi bà Triệu Ẩu cỡi voi bành vàng.
Lại có chuyện rằng, thuở nhỏ cha mẹ đều mất sớm, Bà đến ở với anh là Triệu
Quốc Đạt. Lớn lên, bà là người có sức mạnh, giỏi võ nghệ, lại có chí lớn. Năm
19 tuổi, đáp lời người hỏi bà về việc chồng con, Bà Triệu nói: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng
sóng dữ, chém cá trường kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập,
cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người! ”
Câu nói này thấy chép đầu tiên trong
sách Thanh Hoá kỷ thắng 清化紀勝của Vương Duy Trinh王維貞. Tác giả người Phủ Diễn, Từ Liêm,
Hà Nội; tự Tử Cán, hiệu Đạm Trai; đỗ Cử nhân 舉人kì thi Hương 鄉試năm Canh
Ngọ 1870, làm Bố chánh (布政, chức quan sau tuần phủ hay tổng đốc, chuyên
trông coi việc thuế khoá, tài chính ở tỉnh), sau thăng đến Tổng đốc (總督, đứng đầu một tỉnh lớn, coi mọi mặt về dân sự
lẫn quân sự trong địa hạt) Thanh Hóa có đóng góp nhất định trong việc sưu tầm
văn học dân gian địa phương.
Nguyên bản cuốn này khoảng 27.000 chữ Hán hoàn thành vào ngày 25 tháng 5
năm Thành Thái 15 (1903), mô tả khá đầy
đủ các di tích lịch sử, cảnh đẹp, danh lam của Thanh Hóa thời bấy giờ, gắn với
tên tuổi một số vị anh hùng, danh nhân đất nước, cũng như bút tích, thơ ca họ
còn để lại.
Trong sách đó, Vương Duy Trinh giành khoảng 1090 chữ Hán để chuyển tải nội
dung phong phú về Bà Triệu với những tư liệu được chắt lọc qua thư tịch cổ của
Việt Nam, Trung Quốc và lưu truyền trong dân gian.
Như vậy, danh xưng “Biển Đông” đã được
dân Việt biết đến từ rất xa xưa và được chép trong sử sách muộn nhất từ thế kỷ
XV trong một áng văn bất hủ của một tài danh “sáng tựa Sao Khuê” ! Trong khi đó cái “đường 9 đoạn” của Trung Quốc mới “nặn” ra giữa thế kỷ trước còn “Tứ Sa” thì mới toanh toành toành !
Vì thế, trong các tài liệu, băng rôn, xuất bản phẩm,…trong tiếng Việt phải
dùng thống nhất là BIỂN ĐÔNG còn khi thế giới có dùng từ SOUTH CHINA SEA thì phải
được hiểu là vùng biển PHÍA NAM NƯỚC TRUNG QUỐC chứ KHÔNG PHẢI BIỂN CỦA TRUNG
QUỐC như Bắc Kinh có tình hiểu mập mở thế !. Điều này tương tự như thế giới
gọi ẤN ĐỘ DƯƠNG, BIỂN NHẬT BẢN,… chỉ đơn thuần là Ấn Độ, Nhật Bản,…ở gần
đó !
-
Lương Đức Mến,
05/5/2020-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng nguyên tắc cộng đồng và sở nguyện cá nhân