Cứ mỗi lần đến
ngày giỗ Tổ Hùng Vương, đồng bào cả nước lại nô nức “về nguồn”, tụ hội ở Đền
Hùng, tưởng niệm Đức Quốc Tổ. Nhưng, ngày giỗ Tổ Hùng Vương có từ bao giờ? Tại
sao lại chọn ngày mồng Mười tháng Ba làm ngày giỗ Tổ? Lệ ấy có từ bao giờ? và được
chép ở đâu ?
Muốn rõ những vấn
đề đó đọc lại Hùng Vương từ khảo (H: 雄王祠考, P: Historique du temple de Hùng-Vương) là tấm văn bi ở Đền Hùng được
soạn vào năm 1940 và những bài viết của con thứ cụ Hoản là ông Bùi Ngọc Sách.
1. Người đề xuất lệ Giỗ Tổ Hùng Vương vào 10/3:
Đó là Tuần phủ
Phú Thọ Lê Trung Ngọc (黎忠玉, 1867-1928). Ông sinh
trưởng trong một gia đình nho học ở làng Liên Thành (xưa là ấp Tân Quảng), tổng Dương Minh, huyện Bình Dương, tỉnh Chợ
Lớn (nay là phường 5 và phường 6, quận 5,
thành phố Hồ Chí Minh).
Năm 1883, sau khi
học xong trường Hậu Bổ Cây Mai Sài Gòn (Collège dés Stagiaires), ông ra đất Bắc làm việc trong chính quyền các
cấp của triều đình nhà Nguyễn. Từ năm 1903 đến khi nghỉ hưu năm 1927 ông đã
trải qua nhiều vị trí như: Tuần phủ Bắc
Ninh, Thương tá Vĩnh Yên, Án sát tỉnh Vĩnh Yên, sau đổi làm Án Sát tỉnh Phúc
Yên, Án sát tỉnh Sơn Tây rồi: Tuần phủ
tỉnh Sơn Tây, tỉnh Bắc Giang, tỉnh Quảng Yên, Phú Thọ sau thăng Tổng đốc tỉnh
Hải Dương, Tổng đốc tòa Thượng thẩm, Hà Nội. Ông còn là một trong những người
sáng lập ra Hội Khai trí tiến đức và Hội Nam kỳ tương tế ở Hà Nội.
Trong đó có thời
gian từ tháng 2-1915 đến tháng 1-1921 ông làm Tuần phủ tỉnh Phú Thọ. Trong
những năm đó, ông Lê Trung Ngọc đã giành nhiều tâm huyết và công sức tu bổ, tôn
tạo đền thờ vua Hùng. Đầu năm 1917, ông làm bản tấu trình với Bộ Lễ xin định lệ
hàng năm lấy ngày 10 tháng 3 âm lịch để nhân dân cả nước kính tế Quốc Tổ Hùng
Vương[1], trước một ngày so với
ngày hội tế Thổ công, Thổ địa, Thổ kỳ của dân xã bản hạt, đồng thời cũng xin
miễn trừ các khoản đóng góp của nhân dân địa phương vào các kỳ tế lễ mùa thu. Ngày
25 tháng 7 năm 1917 (Niên hiệu Khải Định
năm thứ nhất), Bộ Lễ ban hành công văn phúc đáp và chính thức định lệ ngày
quốc tế/quốc lễ - Giỗ Tổ Hùng Vương là ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch và quy định
nghi thức, nghi lễ, lễ vật tế Tổ hàng năm[2].
Ngày 8-6-1928 (tức ngày 21 tháng 4 năm Mậu Thìn), ông mất
tại Hà Nội, hưởng thọ 62 tuổi.
Tên tuổi Tuần phủ
Lê Trung Ngọc được sử sách ghi chép với tư cách ông là tác giả của việc định lệ
Giỗ Tổ Hùng Vương vào ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm[3]. Ông luôn được đánh giá là
ông quan gần dân, thương dân, cảm thông với nỗi khổ của người nông dân; đồng
thời ông cũng là người có tư tưởng tiến bộ, có ý thức tiết kiệm ngân khố của
dân, của nước.
2. Người
soạn văn bia:
Văn bia do Bùi
Ngọc Hoàn (裴玉環, 1888-1960) khi đó giữ chức Tham tri, hữu
tuần phủ Phú Thọ soạn vào ngày 10 tháng 3 Canh Thìn, niên hiệu Bảo Đại thứ 15
triều Nguyễn (1940).
Cụ Hoàn thuộc
dòng họ Bùi Ngọc vốn gốc Phất Lộc (thuộc
Thái Bình nay) lên Thăng Long năm 1717 “vì ở gần biển nước triều, nạn nước
lụt, thời nhà Lê tổ tiên nhà đồng tình dời lên ở thành Thăng Long” với Thủy tổ
là Cụ Bùi Ngọc Lễ hiệu Đôn Phác, Tráng Sĩ tướng quân. Dòng này có ba đời theo
triều Tây Sơn đánh giặc. Các thế hệ sau kế tiếp làm Võ tướng, cụ Bùi Ngọc Doãn
là Vệ úy Tướng quân Doãn Tài nam theo vua Quang Trung đánh giặc Mãn Thanh giải
phóng kinh thành Thăng Long, được phong đất ở bãi Bình Lao.
Cụ Bùi Ngọc Hoàn
là Tham tri bộ Lễ, từng làm Chánh án tỉnh Phú Thọ, sau chuyển về Chánh án tỉnh
Hà Đông và trở lại Phú Thọ được bổ nhiệm làm Tuần phủ. Chính dịp này ông đã
soan lời văn trong Hùng Vương từ khảo.
Cũng năm đó (1940) ông mở gian hàng “Sản vật và con
người Phú Thọ” tại nhà Đấu xảo Hà Nội giới thiệu nhiều đồ sản xuất từ mây, tre,
nan.
Sau đó, vào năm
1941, Ông viết tựa cuốn sách viết về 3 vở kịch xưa nói về Tổ Hùng Vương (Động Đình hồ, Âu Cơ, và Hùng Duệ Vương)
của Bác sĩ Henri Marcel[4] từng được công diễn tại
Phú Thọ - Việt Trì - Hiền Lương - Chí Chủ - Tây Sơn. Lời tựa có đoạn “Sự tích
Đức Hùng Vương, sử Việt viết rõ cả, nhưng chỉ người học thức là rõ được, còn
phần đông dân thành thị và thôn quê đều mờ mịt cả, nếu không diễn ra câu ca vở
kịch lưu truyền, sao cho người biết được ..”.
Trước lúc về hưu
năm 1943, ông được thăng hàm Tổng đốc. Khi nghỉ ông về nhà riêng 68 phố Jacquin Hà Nội. Sau đó chuyển
về số 10 ngõ Tô Hoàng, phố Bạch Mai, Hà Nội vốn là một Từ đường của chi Bính
dòng họ Bùi Ngọc[5].
Trong kháng chiến
9 năm ông là Nhân sỹ yêu nước. Năm 1946 là Hội Trưởng Hội Binh sĩ bị nạn (tiền thân của ngành Thương binh) khu
Bạch Mai. Khi đi tản cư ông làm Hội trưởng Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (chủ tịch Mặt trận Tổ quốc) tỉnh Hà Nam (cùng lúc cụ Bùi Kỷ làm Hội trưởng Liên khu 3).
Ông tham gia Hội
Hợp Thiện đứng ra thực hiện việc giúp đỡ, qui tập, xây dựng các khu mồ chôn cất
đồng bào bị chết trong trận đói lịch sử năm Ất Dậu (1945) tại Hà Nội ở khu
Quỳnh Lôi, Hà Nội.
3. Giá trị của văn bia:
Bài văn khảo cứu
về Đền Hùng nguồn Quốc Tổ nước Việt là Hùng Vương, khi An Dương Vương làm chủ đã lập “miếu thờ các
vua ở núi Nghĩa Lĩnh” và cấp ruộng thờ cho con cháu ở “thôn Cổ Tích xã Hi
Cương, là nơi Hùng Vương thứ 18 thăng hà”. Đồng thời cho biết: “Trước đây, ngày
Quốc tế được tổ chức Xuân - Thu nhị kỳ. Năm Khải Định thứ 2 (1917) tuần phủ Phú Thọ là Lê Trung Ngọc
có công văn xin Bộ lễ ấn định lấy ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch làm ngày Quốc tế, tức trước ngày giỗ Tổ Hùng Vương một
ngày, còn ngày giỗ (11-3) do dân sở
tại làm tế lễ”[6].
Lệ này được định ra trong thời kỳ đền Hùng được đầu tư lớn nhất trong lịch sử
phong kiến Việt Nam kéo dài tới 6 năm (1917-1922).
Đương thời đã
nhận thấy văn bia “Hùng Vương từ khảo“ là văn bia khảo cứu tổng quát về sự tích
đền Hùng hoàn chỉnh hơn cả. Bia không quên công đức của các vị Vua, quan cao
cấp và các quan Tuần phủ tiền nhiệm, làm rõ lịch sử hình thành mảnh đất lập Đền
cho đến ngày lập bia, lịch sử ấn định ngày giỗ Tổ 10 tháng ba và sự hình thành
các công trình trên núi Nghĩa Lĩnh…
4. Về
tấm bia khắc bài văn:
Tấm văn bi được
tạc bằng đá xanh, gắn trên tường Quan Cư ở bên trái đền Thượng bằng một lễ tế
cấp quốc gia.
Bia có hai mặt một bên là chữ Hán (雄王祠考), mặt sau là chữ Pháp (Historique du temple de HUNG VUONG), phản
ánh một vấn đề lịch sử là trong thời thuộc địa nửa phong kiến của Việt Nam: dùng
chữ Hán và chữ Pháp làm văn tự chính thức trong nghi lễ .
Khoảng 10 năm sau khi xuất hiện, Tấm văn bia
bị mất mà không rõ nguyên do, chỉ còn lại chân bia.
Đầu những năm
2000, hậu duệ của Cụ Bùi Ngọc Hoản đã nỗ lực tìm kiếm nội dung đích thực để
phục chế tấm bia. Kết quả là cháu ngoại cụ Bùi, ông Vũ Văn Sơn (con của bà Bùi Thị Tính, SN 172 phố Quán
Thánh) đã tìm trong Viện nghiên cứu Hán Nôm và ngày 13/5/2008 được cung cấp
hai bản rập văn bia mang số 18704 (chữ
Hán) và 18705 (chữ Pháp) kèm bản
phiên âm và bản dịch nghĩa “Khảo về Đền Hùng Vương“ do tiến sỹ Nguyễn Hữu Mùi
dịch. Sau đó, ông Sơn còn tiếp tục tìm kiếm tư liệu liên quan xưa về sự thể khi
đặt bia lưu trữ trong bảo tàng Louis Finot bên Pháp. Bộ hồ sơ này được bàn giao
cho BQL Khu di tich Đền Hùng kèm ảnh cụ Tham tri Bùi ngọc Hoàn trong lễ phục
Nam triều chụp cùng năm 1940, năm cụ được giao soạn bia.
Vào năm 2010, bia
được khôi phục dựa trên nội dung bài minh văn mà các hậu duệ của soạn giả Bùi
Ngọc Hoàn còn lưu trữ, mặt trước rập Hán văn và mặt sau Pháp văn.
5. Nội dung Văn bia:
HÁN VĂN
|
PHIÊN ÂM
|
DỊCH NGHĨA
|
“雄王祠者我越最古史上鴻厖列王祀所也.
|
Hùng Vương từ giả ngã Việt tối
cổ sử thượng Hồng Bàng liệt vương tự sở dã.
|
“Đền Hùng Vương là nơi thờ các vị
vua cổ xưa nhất thời Hồng Bàng trong lịch sử nước Việt ta.
|
雄王第一(陽曆紀元前二八七九)都奉州(即今白鶴)國號文郎, 傳十八世, 皆稱雄王, 歷年二千六百二十有二. 後 蜀 安 陽 王 佔 據其地(陽曆紀元前二五八)存前王祀建廟於義嶺(即今雄山). 給祀田在羲崗社, 古蹟村, 乃雄王第十八升遐故地也.
|
Hùng Vương đệ nhất (dương lịch
kỷ nguyên tiền nhị bát thất cửu) đô Phong Châu (tức kim Bạch Hạc) quốc hiệu
Văn Lang, truyền thập bát thế, giai xưng Hùng Vương, lịch niên nhị thiên lục
bách nhị thập hữu nhị. Hậu Thục An Dương Vương chiếm cứ kỳ địa (dương lịch kỷ
nguyên tiền nhị ngũ bát) tồn tiền vương tự kiến miếu ư Nghĩa Lĩnh (tức kim
Hùng sơn), cấp tự điền tại Hi Cương xã, Cổ Tích thôn, nãi Hùng Vương đệ thập
bát thăng hà cố địa dã.
|
Hùng Vương thứ nhất (2879 TCN)
định đô ở Phong Châu (nay là Bạch Hạc), đặt quốc hiệu là Văn Lang, truyền 18
đời, đều xưng là Hùng Vương, trải 2622 năm. Về sau, đất ấy bị Thục An Dương
Vương chiếm (258), nay còn miếu thờ các vua ở núi Nghĩa Lĩnh (tức núi Hùng).
Cấp tự điền ở thôn Cổ Tích xã Hi Cương, là nơi Hùng Vương thứ 18 thăng hà.
|
今上有陵在廟旁,嗣而肇富村民建別廟於山腰以奉之(即今中祠, 薇崗社又建別廟於山麓以奉之(即今下)歷朝列之祀典.
|
Kim thượng hữu lăng tại miếu
bàng, tự nhi Triệu Phú thôn dân kiến biệt miếu ư sơn yêu dĩ phụng chi (tức
kim Trung từ), Vi Cương xã hựu kiến biệt miếu ư sơn lộc dĩ phụng chi (tức kim
Hạ từ), lịch triều liệt chi tự điển.
|
Nay còn lăng ở cạnh miếu, con
cháu đời sau là cư dân ở thôn Triệu Phú xây miếu thờ ở lưng núi (nay là đền
Trung), xã Vi Cương lại dựng thêm miếu dưới chân núi để thờ (đền Hạ), trải
các triều đại được liệt vào điển chế thờ tự.
|
皇朝嗣德貳拾柒年(陽曆一八七四)三宣總督阮伯儀奉勅重修上祠;維新陸年((陽曆一九十二)延茂郡公黃高啟諮請政府給銀貳千元;富夀巡撫制光恩又奉行勸捐重修內寢外殿如今規式;啟定柒年(陽曆一九二二)增修山陵.
|
Hoàng triều Tự Đức nhị thập
thất niên (dương lịch nhất bát thất tứ) Tam Tuyên tổng đốc Nguyễn Bá Nghi
phụng sắc trùng tu Thượng từ; Duy Tân lục niên (dương lịch nhất cửu thập nhị)
Diên Mậu quận công Hoàng Cao Khải tư thỉnh chính phủ cấp ngân nhị thiên nguyên;
Phú Thọ tuần phủ Chế Quang Ân hựu phụng hành khuyển quyên trùng tu nội tẩm
ngoại điện như kim quy thức; Khải Định nhị niên (dương lịch nhất cửu nhị nhị)
tăng tu sơn lăng.
|
Tự Đức năm thứ 27 (1874), Tam
Tuyên tổng đốc Nguyễn Bá Nghi vâng sắc chỉ trùng tu đền Thượng; Duy Tân năm
thứ 6 (1912), Diên Mậu quận công Hoàng Cao Khải trình tờ tư xin 2000 quan
tiền (để tu sửa); Phú Thọ tuần phủ Chế Quang Ân lại phụng mệnh khuyến khích
quyên tiền để trùng tu nội tẩm cùng ngoại điện như thực trạng bây giờ; Khải
Định năm thứ 7 (1922), tu sửa lăng trên đỉnh núi.
|
前者, 國祭以秋為期;啟定貳年(陽曆一九十七)富夀巡撫黎忠玉諮請禮部印定以逅年三月初拾為國祭日, 即雄王第十八忌前一日也. 忌日(三月十一)由所在民致祭.
|
Tiền giả, quốc tế dĩ thu vi kỳ;
Khải Định nhị niên (dương lịch nhất cửu thập nhất) Phú Thọ tuần phủ Lê Trung
Ngọc tư thỉnh Lễ bộ ấn định dĩ đệ niên tam nguyệt sơ thập vi quốc tế nhật,
tức Hùng Vương đệ thập bát kị tiền nhất nhật dã. Kị nhật (tam nguyên thập
nhật) do sở tại dân chí tế.
|
Trước đây quốc lễ cúng tế định kỳ
vào mùa thu; Khải Định năm thứ 2 (1917), Phú Thọ tuần phủ Lê Trung Ngọc có tờ
tư xin bộ Lễ cho ấn định lấy mồng 10 tháng 3 hàng năm làm ngày quốc tế. Ngày
giỗ (11 tháng 3) thì do dân sở tại tự làm tế lễ.
|
山腰有古寺, 號天光寺, 嗣德三年(陽曆一八五十)刑部尚書阮登楷, 因舊重建;啟定玖年(陽曆一九二四)巡撫黎雲嵿又增補之.
|
Sơn yêu hữu cổ tự, hiệu Thiên
Quang tự, Tự Đức tam niên (dương lịch nhất bát ngũ thập) Hình bộ thượng thư
Nguyễn Đăng Giai, nhân cựu trùng kiến; Khải Định cửu niên (dương lịch nhất
cửu nhị tứ) Tuần phủ Lê Vân Đỉnh hựu tăng bổ chi.
|
Lưng núi có ngôi chùa cổ Thiên
Quang. Tự Đức năm thứ 3 (1850), Hình bộ thượng thư Nguyễn Đăng Giai nhân chùa
cũ nên cho dựng lại; Khải Định năm thứ 9 (1924), tuần phủ Lê Vân Đỉnh lại cho
tu bổ thêm.
|
山下南邊有廟. 號井廟祀公主二位:一是雄王第三世僊容公主(適楮童子);一是雄王第十八世玉花公主(適高山). 啟定柒年(陽曆一九二二)重修;保大拾年(陽曆一九三五)又增廣之.
|
Sơn hạ Nam biên hữu miếu, hiệu
Tỉnh miếu tự công chúa nhị vị: Nhất thị Hùng Vương đệ tam thế Tiên Dung công
chúa (thích Chử Đồng Tử); nhất thị Hùng Vương đệ thập bát thế Ngọc Hoa công
chúa (thích Cao Sơn) Khải Định thất niên (dương lịch nhất cửu nhị nhị) trùng
tu; Bảo Đại thập niên (dương lịch nhất cửu tam ngũ) hựu tăng quảng chi.
|
Chân núi phía Nam có miếu Giếng,
thờ hai vị công chúa: Một là công chúa Tiên Dung con Hùng Vương thứ 3 (gả cho
Chử Đồng Tử); một là công chúa Ngọc Hoa con Hùng Vương thứ 18 (gả cho thần
núi Cao). Khải Định năm thứ 7 (1922) trùng tu. Bảo Đại năm thứ 10 (1935) lại
xây rộng thêm.
|
皇阮保大拾五年庚辰三月初拾日. 參知領富夀巡撫裴玉環奉誌. ”
|
Hoàng Nguyễn Bảo Đại thập ngũ
niên Canh Thìn tam nguyệt sơ thập nhật. Tham tri lĩnh Phú Thọ tuần phủ Bùi
Ngọc Hoàn phụng chí.”
|
Mồng 10 tháng 3 Canh Thìn, Nguyễn
triều Bảo Đại năm thứ 15 (1940). Tham tri lĩnh Phú Thọ tuần phủ Bùi Ngọc Hoàn
vâng mệnh chép lại.”
|
— 雄王祠考
|
Hùng Vương
từ khảo
|
Khảo đền Hùng
Vương
|
-Những ngày đầu tháng 3 Mậu Tuất, Lương Đức Mến-
[1] Theo ông Tạ Trí Đại Trường trong "Thần Người Đất
Việt" thì cái "Giỗ" này có nguồn gốc từ tục thờ thần linh bản
địa và / hoặc thủ lĩnh địa phương trước kia, tới thời nhà Lê mới nâng tầm Hùng
Vương lên thành 1 hệ thống ...
[2] Bia “Hùng miếu điển lệ bi” được Hội đồng kỷ niệm tỉnh Phú
Thọ lập và dựng tại đền Thượng - Khu di tích Đền Hùng mùa xuân năm Quý Hợi,
niên hiệu Khải Định năm thứ 8 (năm 1923), “Phụng sao văn bản của bộ Lễ định
ngày Quốc tế” do Nguyễn Huy Vĩ, hiệu là Tây Đình cư sĩ, người tỉnh Hà Đông viết
chữ đã ghi lại sự kiện lịch sử quan trọng này. Bia gồm 2 phần:
- Phần thứ nhất, chép lại công văn của Bộ Lễ triều Nguyễn,
ngày 25 tháng Bảy năm Khải Định thứ nhất (1917) gửi Các vị ở phủ viện đường đại
nhân tỉnh Phú Thọ cùng nhau tuân thủ điều sau đây: “Xã Hy Cương, phủ Lâm Thao có miếu lăng phụng thờ Hùng Vương ở núi Hùng,
trải các năm, cả nước đến tế, thường lấy kì mùa thu, chọn vào ngày tốt làm lễ,
chưa có việc định rõ ngày, mà tục lệ của dân xã đó lấy ngày Mười Một tháng Ba,
kết hợp với thờ thổ kỳ, làm lễ riêng… (Sự thể này dẫn tới chỗ) thường hứng bất
kì, hội họp cũng lãng phí theo sở thích, còn lòng thành thì bị kém đi… (Vì thế)
cẩn thận định lại rằng, từ nay về sau, lấy ngày mồng Mười tháng Ba, lĩnh tiền
chi vào việc công, phụng mệnh kính tế trước một ngày so với ngày hội tế của bản
hạt, khiến nhân sĩ mọi miền đến đây có nơi chiêm bái…”.
- Phần thứ hai quy định “Đệ niên kỉ niệm hội nhật lễ nghi” (Nghi lễ ngày hội kỷ niệm hằng năm)
với những câu như sau: “Nay phụng mệnh theo Bộ Lễ, chuẩn định ngày quốc tế tại
miếu Tổ Hùng Vương là ngày mồng Mười tháng Ba. Chiều ngày mồng Chín tháng Ba
hằng năm, các quan liệt hiến trong tỉnh, cùng các quan viên trong cả phủ huyện
của tỉnh, đều phải mặc phẩm phục, tề tựu túc trực tại nhà công quán. Sáng hôm
sau, tới miếu kính tế…”.
[3] Ngày 2/4/2007, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã
thông qua Quyết định sửa đổi, bổ sung điều 73 Luật Lao động, cho người lao động
được nghỉ hưởng nguyên lương nhân ngày Giỗ tổ Hùng Vương (mồng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm) để thực hiện tín ngưỡng thờ cúng
Hùng Vương, thờ cúng Tổ Tiên.
[4] Người công giáo Nam Bộ, vào làng Tây, khi đó phụ
trách Y tế Phú Thọ.
[5] Dòng Bùi Ngọc có từ đường tại 53 ngõ Phất Lộc, nay đặt
tại số 2 phố Hàng Bạc trên một căn gác cổ kính.
[6] Theo ông Vũ Tiến Khôi - Chủ tịch Hội Sử học tỉnh Phú Thọ,
thì: “Xưa kia, việc cúng Tổ được cử hành vào ngày 12 tháng 3 (âm lịch) hằng năm. Con cháu ở xa về làm
giỗ trước một ngày, vào ngày 11 tháng 3 (âm
lịch)... Nhà Nguyễn định lệ 5 năm mở hội lớn một lần (vào các năm thứ 5 và 10). Hội lớn, có quan triều đình về cúng tế
cùng quan hàng tỉnh và người chủ tế địa phương cúng vào ngày 10 tháng 3 (âm lịch)”.
Một số CHỨC QUAN viết trong bài:
Trả lờiXóa1. Án sát 按 察: Tháng 6 năm Hồng Đức thứ 2 (1471), đặt chức Án sát ở 12 Thừa tuyên và đặt bat y (tức Đô ty, Thừa ty, Hiến ty) ở Quảng Nam. Năm Minh Mạng thứ 12 (1831) quy định Án sát dưới quyền Tổng đốc, Tuần phủ. Ty Án sát sứ các tỉnh có Thông phán, Kinh lịch, bát cửu phẩm Thư lại, Vị nhập lưu thư lại. Số lượng nhiều ít tuỳ theo từng tỉnh.
Ở các tỉnh nhỏ chỉ có Tuần vũ thì Án sát giữ vị trí tỉnh Phó giữ việc hình. Thời Tự Đức (1848-1883) Án sát coi như tỉnh Phó của tỉnh nhỏ.
2. Tham tri 參 知: Đặt từ thời Lê thế kỷ XV, coi việc sổ sách quân dân của một đạo. Theo quan chế thời Minh Mạng Tả Hữu Tham tri trật tòng nhị phẩm văn giai.
3. Tổng đốc 總 督: từ năm Tân Mão 1831, năm thứ 12 triều vua Minh Mạng, nhà vua cho đổi các trấn (tức là các thừa tuyên của nhà Hậu Lê) thành tỉnh và chia Việt Nam thành 30 tỉnh và đặt các chức Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chính, Án sát, Lãnh binh tại địa phương cấp liên tỉnh và cấp tỉnh. Tiền thân của chức Tổng đốc là các chức Tổng trấn và Hiệp trấn vào thời vua Gia Long, còn trước đó từ triều nhà Hậu Lê là các chức quan Trấn thủ hay Lưu trấn. Sử nhà Nguyễn còn gọi chức Tổng đốc bằng cái tên gọi Hộ lý tổng đốc hay Hộ đốc.
Tổng đốc thường mang hàm tòng nhất phẩm hoặc chánh nhị phẩm.
4. Tuần phủ 巡 撫: có từ thời nhà Nguyễn, học theo phép quan chế của nhà Thanh. Là người đứng đầu một tỉnh nhỏ, mang hàm nhị phẩm (chánh hoặc tòng).