1. Tết Kỉ Mùi
1979, tôi không ngược Lào Cai mà về ăn Tết tại Nho Tống, Phú Minh, Phú
Xuyên, Hà Tây ở nhà bạn học hồi Cấp 2 là Phùng Thế Hùng. Nhiều người
tưởng tôi là rể mới !
2. Sáng Mồng 4
Tết (31/01/1979) chúng tôi lên Lục
Nam, Hà Bắc lao động. Trời rét cắt da. Dân đây rất nghèo, nhưng đông
con và tốt bụng.
Thứ bẩy 17/2 (21
tháng Giêng âm lịch) chúng tôi trở về trường tiếp tục học. Dọc
đường thấy các xe tăng, pháo của các đơn vị bộ đội vẫn chưa tháo bát
phủ!
Nhưng tới
trường thì biết: “Chiến tranh biên giới đã nổ ra”!. Tôi nghĩ nhà mình
cách BG 36 Km chắc TQ khó đánh đến nơi ! Sau này tôi mới biết sáng
17/02 phía TQ huy động hơn 15 vạn quân thuộc 2 Quân đoàn 13, 14 đồng
loạt ttấn công trên toàn tuyến Biên giới Lào Cai. Và quân “bành trướng”
đã tràn qua 10 Đồn Biên phòng, 64 xã, 7 khu phố, 4 thị trấn thuộc 4
huyện, 2 thị xã của Lào Cai. Riêng
Bảo Thắng chỉ còn 5 xã là không bị quân TQ đánh[1].
3. Sau khi ở
Lục Nam về, tối thứ Bẩy, xuống Tây
Mỗ chơi: PTM và KL vẫn phần quà
Tết, nghe HM thuật lại chuyến về, tôi cứ buồn cười mãi !. Chả là: vì quá lo lắng tranh chỗ ngồi cho cụ
mà “được” khen là “đanh đá”.
Mấy hôm sau,
trong một tối sinh nhật KL (quê Kim
Tân, Tx Lào Cai-Lớp A6), tôi đã
đọc tặng các bạn bài:
Sinh em, mẹ gọi Kim Liên,
Chắc là kỉ niệm nhớ miền quê xa.
Mùa Đào em ngắm Sa Pa,
Còn anh Nam bộ ngắm hoa Mai Vàng.
Ngày sinh, Xuân đến ngỡ ngàng,
Lay lòng anh gọi: Mai
Vàng-Mai Liên.
Chính vì việc
tôi đổi tên Kim Liên thành Mai Liên đã gây hiểu lầm cho KL và HM là tôi
yêu Liên (ML được hiểu là Mến+ Liên).
4. Suốt tuần, chiều
chiều tôi đạp xe ra Ga Hàng Cỏ thấy đồng bào lũ lượt bồng bế nhau sơ
tán về quê tránh, gặp nhiều người quen nhưng chưa thấy người xóm tôi.
Đúng hôm Chủ
nhật (24/2) tôi đi Phú Xuyên
chơi thì gia đình xuống tới Hà Nội, bố vào Trường không gặp lại ra Ga ngay. Tối
về, nghe anh Bé kể lại tôi đạp xe ra và gặp đủ cả nhà. Thì ra khi “quân
bành trướng” tiến tới Phong Hải (20/02)
cả Đội 7 nhà tôi đều về quê, không ai ở lại. Gia đình tôi đi bộ xuống
Xuân Quang ở nhờ nhà anh Thiếp vài hôm thấy không yên lại đi nhờ xe bộ
đội đến Phố Ràng, chuyển tiếp Yên Bái và xuôi tầu về Hà Nội. Nếu
không có cuộc chiến chắc Thuộc-Nghị sẽ chuẩn bị cưới. Nhiều chuyện
cười ra nước mắt. Đúng là chạy loạn: chẳng hiểu thế nào mà mẹ tôi
cho vào thúng gánh cả hòn đá mài chạy bộ nhiều đoạn xuống tận đây.
Ngay đêm đó gia đình đi tầu về quê Hải Phòng.
5. Khi chuẩn bị
đi thực tập vòng II đến phút chót mới biết tôi đi Sài Gòn.
Xin mãi anh
Phẳng C trưởng quản lý học viên mới đồng ý, tối 17/3 tôi ra ga Hàng Cỏ
chen mua vé lên tầu về Hải Phòng, trên tầu gặp gia đình bà Minh cũng
trên đường về quê.
Đến HP lúc 9
giờ, trời tối lại lạ đường (từ khi
rời quê năm 1964 tôi mới trở lại một lần vào năm 1971) nhưng dựa
vào trí nhớ tuổi thơ tôi vẫn đạp xe về đến làng được. Đường làng
trơn, dò mãi cũng tới nhà anh Tiêm (họ
Lương gần nhất của gia đình tôi tại quê). Bà ở xóm trong (họ Đặng), tôi vào thăm bà rồi sáng hôm
sau vào Cốc Tràng (bên Ngoại) thăm
Mẹ và các em. Tại đây mới biết Bố và em Thường đã ngược lên Lào Cai
từ 2 hôm trước vì được tin TQ rút khỏi xã tôi từ 08/3.
Từ Hải Phòng,
lên đến Hà Nội tôi vào ngay Phú Xuyên đưa
xe đạp cho Tràng (em con chú
Dật) để đi thực tập tại Sài Gòn (thời
gian này Tràng đang thực tập TCCN Bắc Thái tại Nhà máy đường Vạn
Điểm gần nhà P.T. Hùng) rồi quay về Trường ngay trong tối 19, chậm
1 giờ !.
6. Ngày 21/3
đoàn SG là Đoàn rời trường sau cùng.Vì giận HM không ra tiễn tôi viết
bài thơ “Hai bông Hồng”. Chúng tôi đi theo đường giao liên QĐ. Cả Đoàn 70
người ngồi chung một toa, ăn uống do ngành đường sắt lo: ngay tại ga Hàng Cỏ chúng tôi được phát
mỗi người một túi trị giá 5 đồng gồm nhiều loại bánh kẹo và có
cả thuốc lá...
Lần đầu đi dọc
đất nước thấy lắm cảnh lạ, điều
hay: Khoai Diễn Châu, Mía, Gà Đà Nẵng, chui hầm đèo Hải Vân[2], Bãi biển Sa
Huỳnh....Buồn cười là khi mua “Đào lộn hột” ở ga Mường Mán (cây số 1500) cứ tưởng như quả đào ngoài Bắc nhưng hột ở ngoài,
song khi ăn không phải vậy, chỉ tội mấy khăn Muixoa nhựa dính không sao
giặt sạch được; Khi ở Quảng Ngãi (ga
gà) ăn cua bị “Tào Tháo đuổi” hầu hết, hú vía ! Tháp Chàm,
Thuận Hải nóng ghê người và hoang vu quá! Qua Đồng Nai thì mát rượi
cây cối.
7. Qua Xuân Hoà
dấu tích chiến tranh còn khá rõ trên các bức tường. Chiều tối ngày
thứ 3 đến Bình Triệu.Lần đầu biết thế nào là "con phe" đất
đô thành. Bám dai hỏi đủ thứ: tem
lương thực, thuốc lá, sữa...xua chả
đi. Sau đó xe đưa thẳng về 520 Nguyễn Tri Phương thuộc quận 10 (Cơ sở bổ túc SQ quân y cũ của Nguỵ),
gần kề QYV 115. Đúng ngày hôm sau (25/3) người Hoa ở Chợ Lớn tung tin: tiền
50 đồng mất giá làm hàng hoá cứ leo thang hoài (hồi đó trong Nam sài tiền lẻ cả tiền nguỵ lẫn tiền giải
phóng, đổi không quen lắm lúc khá phiền !)
Nhà trường chia bọn tôi làm 4 nhóm thực tập
ở: BV Chợ rẫy, QYV 117 (Cần thơ),
QYV 115 và QYV 175. Tôi về 175 trong nhóm 20 người thực tập Nội.
8. QYV 175 chính
là Tổng y viện Cộng hoà cũ nằm trên đường Võ Duy Nghi nối dài thuộc
Quận Gò Vấp. Chúng tôi ở Cư xá SV cũ, 2 người một phòng, khá rộng.
Hồi này Nhà nước đang khó khăn, ăn toàn “bo bo” (mì hạt) với bì lợn. Đói! Hàng quà sẵn nhưng hổng tiền!
Nhiều chuyện
hiểu lầm tức cười. Quen uống rượu với lạc, chúng tôi gọi lạc rang.,
chủ quan hỏi : lạc đỏ hay trắng,
bọn tôi bảo gì cũng được.Thế là mấy cô túa ra vây liền.Về sau dân
bản địa cho biết: “lạc đỏ chỉ gái
tơ, lạc trắng chỉ gái xề”. Hú hồn !
So với các BV
ngoài Bắc hồi đó thì trang bị của 175 khá hơn, mặt bệnh cũng phong
phú. Hồi này biên giới Tây Nam căng nên Thương binh về luôn.Ngoài 175
chúng tôi còn được thực tập ở BV Gò Vấp về Sản khoa và BV Chợ Rẫy
về Cận lâm sàng.Cùng một đất nước mà nhiều từ đọc mãi không hiểu (Ví dụ: Uốn ván gọi là
Phong đòn gánh). Một hôm trực Sản có một ca tuyến dưới chuyển lên
giới thiệu là: Nghi xảy thai Doté !
tôi lục trí nhớ, tra từ điển mãi chả hiểu Doté là bệnh hay hội
chứng gì ! (vì Các Bs trong đó hay
dùng chữ Pháp nên tôi ngỡ đó là HC gì mà mình chưa rõ) Hỏi một
NHS trực mới hay đó là chữ thuần Việt, viết liền.Nó là : do té = do ngã !
Chính dịp này
HM cũng vô Nha trang thực tập (rời HN
sau tôi 1 tháng). Nhưng vì thời gian và ngân sách nên tôi không thể
ra thăm, với lại hồi đó chúng tôi chưa yêu nhau. Bù lại tôi cũng đã đi
Vườn Lái Thiêu, Dinh Độc lập, Sở thú, Chợ Lớn....Cũng có lắm kỉ
niệm hay. Nhưng nhớ nhất là chuyện với cô y tá Minh ở Khoa XN, chính
vì bài sau mà suýt nữa tôi bị tổ Đảng "cắt đối tượng" !
“Ai làm chiếc nón quai thao,
Để cho anh thấy cô nào cũng xinh”.
Mùa hè che mái tóc xanh,
Chao tay nón quạt lay thành gió ngân.
Đường làng bước dưới mưa Xuân,
Tay nghiêng che nón, tay cầm trong tay.
Ước gì là một áng mây,
Lợp nên chiếc nón suốt ngày bên em.
(Cư xá Sinh viên-Võ Duy Nghi
nối dài-Gò Vấp 8/1979)
Thời kì này
thương binh từ CPC về nhiều nên khá bận việc. Bù lại các Ytá, Hộ lý
ở đây khá "nhiệt tình" và quí bọn tôi.Xuân Lan, người Huế
mết đào Dũng, Nguyệt "vây"
Chử Thành... làm nhiều khi bọn tôi phải xơi quả và tiếp khách...oan
!.
9. Theo KH thì
thực tập 4 tháng.Nhưng vì đoàn Biên giới phía Bắc phải theo “chiến
dịch” nên bọn tôi được lệnh Kéo dài thời gian!
Chủ nhật không
trực là bọn tôi đi chơi: Bến Thành,
Sở Thú, Chợ Lớn, Dinh, Lái Thiêu...Qua thư từ tôi biết gia đình đã
trở lại Lào Cai, mẹ gửi cho tôi 200đ.
Tới tháng 11
mới nhận lệnh Thi hết vòng và ra Bắc học tiếp. Vì cạn tiền nên chả
mấy ai mua đồ nhiều ! QYV tổ chức chia tay khá cảm động !
10. Chiều
24/11/1979 Trường đưa xe từ Gò Vấp
ra ga Hố Nai.
Qua 9 tháng hầu
hết CBNV QYV 175 đều rất quí bọn tôi, nên
có nhiều người tiễn ra tận ga.Trong thời gian chờ tầu mới biết
nơi đây toàn dân "đuổi Pháp quá đà" vô Nam từ 1954.
11. Đường ra
kém hào hứng và phục vụ của giao liên quân đội cũng kém hơn lượt
vào. Đến Đà Nẵng tầu bị bọn trộm đột,
đoàn tôi mất một ít. 5 giờ sáng 27 tới HN. Lúc này HN đã rét.
Chờ 8 giờ Trường đưa xe ra đón, tôi
để đồ đạc cho Chi quản còn mình ngược ngay chuyến tầu trưa lên Lào Cai.
Về tới nhà,
sau 5 ngày tầu xe người phờ phạc hẳn và
mới biết bố tôi vừa ra viện (phù).
Sau Chiến tranh biên giới nơi đây toàn Bộ đội. Nhà tôi bị cháy, chưa
làm lại, ở tạm nhà cũ xưa. Lúc này túi tôi còn vừa đúng 3 đồng
rưỡi.
Kiểm đồ mua từ
Sài Gòn ra thấy cái áo mút mua cho út Luận khi xem ở chợ Bến Thành rõ là dài
sau bây giờ như áo Búp bê, túi cá mực thì bên trong toàn cá tạp, chỉ 2 lớp
ngoài là mực; cau khô mua cho cô thì cứng như đá!
- Lương Đức Mến, sát Tết Thanh Minh 2018-
[1] Chuyện này có bài riêng.
[2] Việc xây dựng con đường sắt xuyên Đông Dương hoàn thành
ngày 1 tháng 10 năm 1936 và từ Hà Nội đến Sài Gòn dài 1.730 km (sau năm 1975 ga
Sài Gòn dời về ga Hòa Hưng và ga này đổi tên ga thành ga Sài Gòn nên chiều dài
chỉ còn 1.726 km).
Đoạn qua đèo Hải Vân rất quanh co nhưng vẫn có những hầm
nhỏ. Hai bên chân đèo có ga Hải Vân Bắc, Hải Vân Nam là trạm đầu máy phụ (hơi
nước) giúp đẩy tàu lên/xuống đèo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng nguyên tắc cộng đồng và sở nguyện cá nhân