Không
phải đến bây giờ mới biết người Trung Hoa “nói một đằng làm một nẻo” nhưng tháng 5/2014 này rộ lên mấy chuyện mới ngấm hơn. Hệ thống lại chút bởi như Cổ huấn 古訓[1] từng có câu: 觀今宜鑒古無古不成今 (Quan kim nghi giám cổ, vô cổ bất thành kim) mà dịch ra lời Việt là:
Xem nay nên xét xa xưa,
Không xưa sao biết bây giờ
là đâu.
1. Một ông Thầy mâu thuẫn:
Nói
đến Trung Quốc không thể không nói đến một nhân vật đó là Khổng Tử (孔夫子, A: Confucius, P: Confucius, 551-479
tCn)[2].
Trong những năm 1970, một học giả Mỹ đã xếp Khổng Tử ở ngôi vị thứ
5, sau Chúa Jesus Christ[3]
của Kitô giáo (H: 天主敎, A: The Christianism
(Catholicism), P: Le Christianisme
(Catholicisme)), Thính-ca-mâu-ni[4]
của Phật giáo (H: 佛教, A: Buddhism, P: Bouddhisme, sa: buddhaśāsana, pi: buddhasāsāna, bo:
sangs rgyas bstan pa སངས་རྒྱས་བསྟན་པ་)...trong số 100 nhân vật
có ảnh hưởng trong lịch sử. Còn đối với Trung Quốc mà nói sự ảnh
hưởng của Khổng Tử có thể phải xếp thứ nhất. Hiện nay, đất nước này do
TBT Tập Cận Bình[5] lãnh
đạo lại càng tự hào và tôn vinh Khổng Tử , được suy tôn là “Vạn thế sư biểu” (萬世師表, thầy của muôn đời).
Hiện
họ đã, đang muốn khuyếch trương Khổng giáo 儒教 [6] và muốn lập viện Khổng tử 孔子学院 ở nước ta[7].
Cụ thể, ngày 13/10/2013, chuyến thăm chính thức Việt Nam của Thủ tướng Trung Quốc
Lý Khắc Cương[8] được
dư luận coi là một phần trong nỗ lực rộng hơn mà Chính phủ Trung Quốc triển
khai nhằm cải thiện quan hệ với các nước láng giềng ở Đông Nam Á khi đã tồn tại
căng thẳng ở Biển Đông do tranh chấp chủ quyền biển đảo. Trong Hội đàm, hai bên
thống nhất sẽ thành lập một nhóm làm việc để tiến hành thảo luận về triển vọng
hợp tác phát triển hải dương chung giữa hai nước để “giảm thiểu nguy cơ xảy ra
va chạm trên biển”. Đồng thời có thỏa thuận về việc thành lập Viện Khổng Tử tại
Trường Đại học Quốc gia Hà Nội và những điều này đã được đề cập đến trong tuyên
bố chung ngày 15/10/2013.
Nói
đến Khổng tử là nói đến Luận Ngữ 論語[9] mà trong sách này, tại
thiên thứ Nhất Học Nhi 學而第一[10] ở Chương thứ 6 第六章 có câu: “子曰: 弟子入則孝,出則弟;謹而信,汎愛眾;而親仁,行有餘力,則以學文” đọc theo âm các cụ ta xưa
là: “Tử viết: Đệ tử, nhập tắc hiếu, xuất
tắc đệ, cẩn nhi tín, phiếm ái chúng nhi thân nhân, hành hữu dư lực, tắc dĩ học
văn”, dịch ra tiếng Việt là: “Khổng
Tử nói: các đệ tử này, ở nhà thì phải có
hiếu, ra ngoài thì kính người lớn tuổi, cẩn trọng điều tín, yêu thương mọi người
như họ là người thân của mình, làm vậy mà
còn dư lực thì hãy học thêm văn chương chữ nghĩa”. Trong đó tôi tâm
đắc câu: 謹而信 tức “cẩn trọng điều tín”.
Nhưng
chỉ 7 tháng sau khi Lý Thủ tướng hồi quốc, họ đã quên chữ “Tín” và quan hệ giữa
hai nước đã phải đối mặt với thách thức nghiêm trọng. Đặc biệt khi Trung Quốc
quyết định di chuyển và hạ đặt giàn khoan nước sâu Hải dương thạch du 海洋石油981[11]
kèm hơn 100 tầu Hải giám, Hải cảnh, Tuần dương, tầu cá có vũ trang bao quanh vào
vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Nói
chẳng giữ lời, học trò của Khổng tử khi đối xử như vậy với Việt Nam là
họ đã đi ngược lại lời dạy của Đức Khổng.
Mặt
khác, nên nhớ rằng chính Khổng tử muốn tái lập Thiên Mệnh (H: 天命, A: The order of God, P: L'ordre
de Dieu) để thống nhất “thiên hạ” 天下 quanh Trung Quốc với nghĩa là ở giữa, trung tâm
thiên hạ. Do vậy phải chăng tính Sô vanh (H: 沙文主义, A: chauvinism, P: Chauvinism as
nationalism) Đại Hán hiện tại là hậu nhân học ở Tổ sư và nâng cao nó lên
trong thời mà Hòa ước Westphalia (H: 威斯特伐利亚和约, A: Peace of Westphalia, P: Traités
de Westphalie) về trật tự thế giới mới[12]
đã có từ mấy trăm năm.
2. “Chủ nghĩa bành trướng” từ đâu:
Tổng
Tham mưu trưởng Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc中国人民解放军总参谋长 Thượng tướng 上将 Phòng Phong Huy 房峰辉[13], trong chuyến thăm Mỹ ngày
15/5/2014 đã cáo buộc Việt Nam “quấy rối”
trong khu vực giàn khoan Hải Dương 981 của Bắc Kinh, và cao giọng thề thốt sẽ “bảo
vệ đến cùng từng tấc lãnh thổ cha ông để lại”, làm như Hoàng Sa, Trường Sa là thời
cụ Tổ của họ là Tần Thủy Hoàng (秦始皇, 259 tCn – 210 tCn) đã có.
Tuyên
bố “trong máu người Trung Quốc không có gen xâm lược” của ông Tập Cận Bình ngày
15/5 trở nên lố bịch với ai hiểu sơ sơ một chút về lịch sử Trung Quốc và đặc biệt
khi thế giới tiếp tục chứng kiến những gì giới lãnh đạo Trung Quốc làm trong những
ngày tháng 5/2014 đang đi ngược hoàn toàn những gì họ nói.
Ngược dòng lịch sử, ai cũng biết trung tâm văn minh cổ, nơi phát
tích của nhà nước Trung Hoa[14] nằm rất
xa Việt Nam[15] và lịch
sử Trung Quốc[16]
là lịch sử của sự mở rộng bờ cõi, của quá trình “Hợp cửu tất phân, phân cửu tất hợp” 合久必分,分久必合. Từ
nơi khởi nguồn vùng Hoa Hạ 華夏, Hán tộc 漢族đã chinh phục xung quanh mà họ gọi là Tứ di 四夷[17] mà có cương vực như ngày nay.
Mãi đến 219 tCn, sau khi thống nhất 7 nước, Tần Thuỷ Hoàng sai Đồ Thư (屠睢, ? - 214tCn) làm chủ tướng, Triệu Đà (趙佗, 257/239 - 137 tCn) làm phó tướng, chỉ huy
50 vạn quân bình định vùng đất Bách Việt 百粵[18] thì người Hán mới biết rõ vùng Hoa Nam 華南[19]. Việc “Nam phạt” 南伐 này 5 năm sau mới
hoàn thành và lập nên 3 quận là Nam Hải (南海, nay là Quảng Đông), Quế Lâm (溎林, đông bắc Quảng Tây nay) và Tượng Quận (象郡, nam Hồ Nam). Nhưng đến
cuối nhà Đường (唐朝, 618-917), còn nhiều tiểu quốc, vương quốc
mà nay do chính quyền Trung Quốc quản lý vẫn chưa thuộc trung nguyên[20].
Ngay cả vùng Tân Cương (Uyghur: شىنجاڭ,
Shinjang; tiếng Trung: 新疆)[21],
Tây Tạng (chữ Tây Tạng: བོད་; tiếng Trung: 西藏)[22]
rộng lớn bao la mãi đến sau này mới thuộc về Trung Hoa.
Vậy đó là gì nếu không phải là sự “bành trướng” 膨漲 của Trung Quốc[23]
mãnh liệt. Nhưng chính nước này đã từng 2 lần bị ngoại tộc cai trị: thời Nguyên
Mông (元朝, 1271 -
1368) và thời Mãn Thanh (大清國, 1644 - 1911).
Chúng ta lại biết là: Trung Quốc khởi nguồn từ đất
không có biển và thực chất những triều đại trước không mấy quan tâm đến biển.
Trung Quốc chỉ mới “vươn ra biển” chính thức bởi Hoạn quan Trịnh Hòa (鄭和, 1371–1433)[24]
thời Minh Thành Tổ (明成祖, 1360 –1424) và trỗi dậy trong hòa bình
hiện nay. Riêng đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thì dưới chính thể Trung
Hoa Dân quốc mới đề cập và được CHND Trung Hoa liên tục có âm mưu lấn chiếm từ
65 năm qua[25].
Như vậy, những gì đang diễn ra trên trường quốc tế,
Trung Quốc lộ rõ tính cơ hội “Thuận thủ khiên dương” (順手牽羊, tranh thủ nắm lấy cơ hội nằm trong tầm tay) đặc biệt ở Biển Đông với
yêu sách “Đường 9 đoạn” 牛舌线[26] phi lý kiểu “Vô trung sinh hữu” (無中生有, không có mà làm ra có)[27]
càng thấy rõ lời tuyên bố của người đứng đầu Trung Hoa hiện tại là không có cơ
sở khoa học và thực tiễn lịch sử.
3. Từ bỏ “phương
châm”, “tinh thần” đã xác định:
Trung Quốc có truyền thống: sự vật, hiện tượng gì
cũng đúc kết thành những câu vần dễ nhớ, thường là 4 từ một câu. Trong quan hệ
Việt-Trung cũng vậy, kể từ khi bình thường hoá quan hệ Việt Nam – Trung Quốc
năm 1991 đến nay, đã từng đưa ra nhiều mỹ từ rất kêu:
- Khởi đầu, sau Hội nghị Thành Đô 成都[28](ngày 3-4/9/1990), trong chuyến
thăm Việt Nam (19-22/11/1994) Tổng bí
thư, Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân đã có 16 chữ trong giải quyết quan hệ:
“Phương hướng rõ ràng, từng bước tiến lên, đại cục làm trọng, hữu hảo hiệp
thương”.
- Sau khi nhậm chức Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt
Nam vào tháng 12/1997, từ ngày 25/2 đến 2/3/1999, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã
có chuyến thăm hữu nghị chính thức Trung Quốc và Tổng Bí thư Giang Trạch Dân đã
đề ra được và Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã đồng ý “phương châm 16 chữ vàng” 十六字方针, là: 睦邻友好 全面合作 长期稳定 面向未来 “Láng giềng hữu nghị, hợp tác
toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”.
- Trong chuyến sang thăm Việt Nam năm 2002, Chủ tịch
Trung Quốc Giang Trạch Dân phát biểu đề xuất tinh thần “4 tốt” 四 好 khung hợp tác trong quan hệ hai nước, là: “Láng
giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” “好邻居, 好朋友, 好同志,好伙伴” .
- Đến tháng 11/2006, trong chuyến thăm chính thức
Việt Nam Tổng bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Hồ Cẩm Đào 胡锦涛 nhắc lại “Tứ tương” là 四相: “sơn thủy tương liên, văn hóa
tương thông, lý tưởng tương đồng, vận mệnh tương quan” 山水相连, 文化相通, 理想相同, 命运相关).
Nhưng chú ý rằng, trong “4 tương” thì hai cái
tương đầu là số phận của 2 nước, không thay đổi được. Cái tương thứ 3 là một định
mệnh của lịch sử và chỉ có lịch sử mới có câu trả lời xác đáng. Cái tương cuối
cùng là cái “tương” quan trọng nhất, và cũng là cái “tương” do con người lựa chọn bởi sống chết cùng
nhau có điểm gì đó còn hơn cả đồng minh, còn hơn cả tình hữu nghị anh em, “bỉ
thử tương ái” 彼此相愛 đây đấy
cùng yêu nhau.
Song chúng ta đừng quên rằng: Trung Quốc đã từng
xác định quan hệ với ta là: “thân nhưng không gần, sơ nhưng không xa, đấu tranh
nhưng không đánh nhau” 亲而不近, 疏而不遠, 争而不鬬. Ngoại trưởng Trung Quốc,
Vương Nghị 王毅[29] từng nói: “Tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau nhưng tuyệt đối không chấp nhận
yêu cầu vô lý của các nước nhỏ. Trung Quốc kiên quyết bảo vệ từng tấc đất của
mình”.
“Nói một đằng,
làm một nẻo”[30] hay đây là kế “Tiếu lý tàng đao (笑裡藏刀, Cười nụ giấu dao, lập mưu kín kẽ
không để kẻ địch biết) mà người Tầu vốn là bậc thầy. Với người Trung Quốc quả là: “畫虎畫皮難畫骨,知人知面不知心” (Họa
hổ họa bì nan họa cốt, tri nhơn tri diện bất tri tâm) tức là: “Hổ vẽ da khó vẽ xương, con người biết mặt
biết lòng làm sao”
4. “Mê hồn
trận” của chữ Hán:
Về phương diện chữ nghĩa, tôi nghĩ đến mấy khả
năng:
- Loại trừ khả năng các lãnh đạo nhầm chữ 作 “tác” (bộ
nhân 亻) là “nhấc lên, làm nên”
ra chữ 怍 “tộ” (bộ
tâm 忄) là “tủi thẹn”; nhầm chữ遇 “ngộ” là gặp ra chữ 過 “quá” là “vượt”, “lỗi”.
- Chữ “tín” vốn là 信 (bộ “nhân” 亻và chữ “ngôn”言) tức “không sai lời” được hậu duệ của “Khổng Thánh nhân” viết thành chữ
“trá” 詐 (bộ “ngôn” 言 và chữ
“sạ” 乍) có nghĩa là “giả dối” mất rồi!
- Chữ Hán truyền thống 傳統漢字xuất hiện lần đầu cùng với các
văn bản ghi chép thời nhà Hán và ổn định từ thế kỷ 5 trong thời Nam Bắc triều
là loại chữ tượng hình và mỗi chữ đều mang một ý nghĩa nhất định thể hiện ngày
trong cấu trúc. Nay được gọi là phồn thể
繁体字 (hay chính thể 正體字) hiện được sử dụng ở Hồng
Kông, Macau, Đài Loan và nhiều cộng đồng Hoa kiều. Từ 1950 Chủ tịch Mao Trạch
Đông chủ trương giản lược nét hoặc điều chỉnh bộ để đơn giản hóa cách viết chữ
Hán nhằm tăng tỷ lệ biết chữ cho dân chúng. Do vậy đã cho ra đời hệ thống chữ
Hán giản thể 簡體字/简体字[31]. Loại chữ này được sử dụng ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Singapore và
Malaysia. Chính bởi sự “cải tiến” đó mà chữ giản thể đã làm mất đi ý nghĩa
nguyên thuỷ. Ví dụ chữ “ái” 愛 là yêu nguyên có 1 chữ “tâm” 心 biểu hiện trái tim khi giản thể lại bị lược mất chữ
心, khiến nó trở thành “vô
tâm chi ái” “无心之爱”, tức “yêu
mà không có trái tim” thời yêu nỗi gì!
Dù thế nào, các lãnh đạo Trung Quốc đã đưa nhân
dân vào “mê hồn trận” của chữ nghĩa để chớp thời cơ có lợi cho họ.
5. Bài học cho hôm nay:
Mới ngẫm qua 4 ý trên đã thấy:
Ngấm từ trong máu ngàn xưa,
Lại nuôi dưỡng bởi giấc mơ
“Thiên triều”.
Chính-Tà, Tín-Trá, Chủ quyền,
Với “anh bạn nhớn” là điều bỏ
đi.
Tìm trong lịch sử mà suy,
Cái lớp hậu duệ còn ghê hơn
nhiều!
Như thế, với Trung Quốc, Việt Nam chúng ta cần dùng ngay sự đúc kết
của người Hán để ứng xử với họ: “知音說與知音聽,不是知音莫與彈 (Tri âm thuyết dữ tri âm thính , bất thị tri âm mạc dữ đàn), nghĩa
là: “Tri âm chuyện với tri âm, chẳng tri âm gảy đàn cầm làm chi”. Nói cụ thể hơn, nếu họ đã vậy
ta cứ “Hữu nghị” mãi được chăng?, có cần lập “Học viện Khổng tử tại Hà Nội không?
Phải có hành động để Trung Quốc áp dụng kế “Tẩu vi thượng sách” 走為上計 dừng xâm phạm Biển Đông của
ta.
- Một tháng sau ngày xẩy ra Vụ “Hải du 981, tháng 5/2014”-
[1] Trong “Tăng quảng hiền
văn” "增廣賢文 là tác
phẩm Khuyết danh gồm 350 câu ngạn ngữ dân gian phản ánh đời sống tâm lý của người
dân Trung Quốc trong xã hội xưa, là sự thể hiện tư tưởng của Nho Giáo, Đạo
Giáo, Lão Giáo…được đời sau coi như là một “túi khôn” của tiền nhân.
[2] Khổng Tử (孔子; còn gọi là Khổng Phu Tử 孔夫子; 551 – 479 tCn) quê quán ở ấp
Trâu, làng Xương Bình, nước Lỗ 鲁国(nay
là huyện Khúc Phụ 曲阜, Tế Ninh 濟寧, tỉnh Sơn Đông 山東, Trung Quốc)..Ông là một nhà
tư tưởng, nhà triết học xã hội nổi tiếng người Trung Hoa, ông tổ của Nho giáo,
có ảnh hưởng rộng lớn đối với đời sống và tư tưởng của các nền văn hóa Đông Á.
Tại các nước chịu ảnh hưởng của văn hóa Nho giáo như Hàn Quốc, Việt
Nam, ông cũng được thờ trong các Văn miếu.
[3] Sinh năm 5 tCn tại Belem (gần Jerusalem), mất năm 30 do bị đóng
đinh vào thập tự tại đồi Canvê, Giuđêa, Đế quốc La Mã. Ông là người Do Thái có
tên là Yehoshua (יהושע - có nghĩa là "Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ"
trong tiếng Hebrew), thường được gọi vắn tắt là Yeshua (ישוע).
[4] Tất-đạt-đa Cồ-đàm hay Phật
Tổ Như Lai sinh Ngày 15 tháng 4 (âm lịch)
năm 563 (624) tCn tại Lumbini, hiện nay thuộc Nepal , mất ngày 15 tháng 2 (âm lịch)
năm 483 (544) tCn thọ 80 tuổi tại Kushinagar, hiện nay thuộc Ấn Độ. Ông là người
sáng lập ra Phật giáo.
[5] 习近平/
習近平 sinh ngày 1/6/1953 tại Bắc Kinh, là con trai cựu Phó Thủ tướng
Trung Quốc Tập Trọng Huân (习仲勋,
1913-2002), gia đình gốc ở Phú Bình,
tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Ông tốt nghiệp Cử nhân Chính trị Học viện Khoa học
Xã hội, Đại học Thanh Hoa, Kỹ sư Hóa chất, Thạc sỹ, Tiến sỹ Luật. Ông là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Trung Quốc khóa 18, Chủ tịch Quân ủy Trung ương, Chủ tịch nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa; thuộc thế hệ lãnh đạo thứ 5, sau thế hệ Hồ-Ôn của Trung
Quốc.
[6] Còn gọi là Nho giáo 儒教 là một hệ thống đạo đức, triết
lý và tôn giáo do Đức Khổng Tử phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị. Nho
giáo rất phát triển ở các nước châu Á là Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên,Hàn
Quốc và Việt Nam. Những người thực hành theo các tín điều của Nho giáo được gọi
là các nhà Nho hay Nho sĩ hay nho sinh.
[7] Học viện Khổng Tử 孔子学院là một cơ sở giáo dục nằm
dưới sự điều hành của Nhà nước Trung Quốc,
hoạt động nhằm các mục tiêu: truyền bá ngôn ngữ Trung Hoa; phổ biến văn hoá Khổng
Nho; và xúc tiến các chương trình hợp tác trao đổi văn hoá giữa Trung Quốc và
các quốc gia khác. Ba mục tiêu này chỉ nằm trong một mục tiêu lớn hơn và quan
trong hơn nhiều, đó là sự triển khai “quyền lực mềm” của Trung Quốc khắp thế giới.
Hiện nay số lượng học viện Khổng Tử trên thế giới đã vượt qua con số 100, ở cả các quốc gia có nền văn hóa khác và
tương đồng với Trung Hoa.
[8] 李克强, sinh 1/7/1955 với nguyên quán tại Định Viễn, An
Huy. Từng trải qua 4 năm lao động chân tay tại Tập đoàn sản xuất Đông Lăng tại
tỉnh An Huy. Vào năm 1978, ông vào Đại học Bắc Kinh, nơi ông tốt nghiệp đại học
Luật và Kinh tế. Từ công tác Thanh niên, ông chuyển sang công tác Đảng, vào Thường
vụ Bộ Chính trị 中国共产党中央政治局常务委员会vào năm 2007 khi là
Phó Thủ tướng thường trực và ngày 15 tháng 3 năm 2013, ông được Quốc hội bầu
làm Thủ tướng Quốc vụ viện.là một chính khách Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Thủ
tướng Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa 中华人民共和国国务院总理. ông Lý có thế mạnh về phát triển kinh tế,
kiểm soát giá, tài chính, biến đổi khí hậu và quản lý kinh tế vĩ mô.
[9] Luận Ngữ là một sách mà do
Khổng Tử và những đệ tử của mình biên soạn từ đời Tiền Hán tới đời Hậu Hán, và
là một chủ đề học vấn chủ yếu trong thi triều đình Trung Hoa Khoa bảng (hay là
"Khoa Cử".
Luận Ngữ là một quyển sách trong bốn sách gọi là Tứ
Thư 四書 (gồm: có Đại Học 大學, Mạnh tử 孟子 và Trung Dung 中庸).
Luận Ngữ được viết ).
Luận Ngữ là sách sưu tập ghi chép lại những lời dạy của
Khổng Tử và những lời nói của người đương thời. Sách Luận Ngữ gồm 20 thiên, mỗi
thiên đều lấy chữ đầu mà đặt tên, và các thiên không có liên hệ với nhau.
[10] 學而第一(主要讲“务本”的道理,引导初学者进入“道德之门”học nhi đệ nhất (chủ yếu giảng “vụ bổn ” đích đạo lí , dẫn đạo
sơ học giả tiến nhập “đạo đức chi môn ”)
[11] Tuần đầu tháng 5/2014
truyền thông Việt Nam
gọi là HD 981, các tuần sau gọi là Hải Dương 981. Bản thân tôi đã có bài đề
nghị không gọi là HD- 981: http://menthuong.blogspot.com/2014/05/goi-ung-ten-chu-nhan-con-tau-ha-at-trai.html
được nhiều người quan tâm, ủng hộ.
[12] Ký ngày 26/10/1648 khi chấm
dứt cuộc chiến 30 năm ở châu Âu tôn trọng chủ quyền các quốc gia dù lớn hay nhỏ.
[13] Sinh 4/1951 tại Thiểm Tây
陕西,
nhập ngũ 2/1968, đã Tốt nghiệp Đại học Quốc phòng Quân đội Giải phóng nhân dân 中国人民解放军国防大学 (gọi
tắt là Đại học Quốc phòng 国防大学).
Nguyên Tư lệnh Quân khu Bắc Kinh, nhậm chức Tổng tham mưu trưởng Quân giải
phóng Nhân dân Trung Quốc ngày 25/10/2012.
[14] Danh xưng Trung Quốc 中國 mới xuất hiện chính thức trên văn kiện ngoại
giao trong Điều ước Nam Kinh 1842 (ký với Anh ngày 29/8/1842 sau Chiến tranh
thuốc phiện). Tiếng Anh và nhiều thứ tiếng khác dịch là Central Kingdom hay Central Country, hay ít chính xác hơn
là “Middle Country” và “Middle Kingdom” trong đó dùng tên China (và tiền tố Sino-),
mà nhiều người coi là tên xuất phát từ tên nhà Tần (秦, Qin,
221-206 tCn), triều đại đầu tiên thống nhất Trung Quốc. Từ này được người
Nhật chuyển tự thành Chi Na 支那 và
dùng từ thế kỷ 19. Các nhà Trung Quốc học thường dùng Chinese theo một nghĩa hẹp gần với
cách dùng kinh điển của "Trung Quốc", hoặc để chỉ sắc dân
"Hán" vốn chiếm đại đa số tại Đại lục Trung Quốc 中國大陸. Trước đó các sử gia gọi nơi phát tích của nước Trung Hoa ngay
nay là Trung Thổ 中土 hay Trung Nguyên 中元 dùng để gọi về mặt chính
trị các nước xuất phát từ nhà Tây Chu, nằm trong châu thổ Hoàng Hà, không tính
nước Sở dọc theo Dương Tử giang, Tần ở phía tây... . Nhưng từ “Trung Quốc” trong văn cảnh nay thường
chỉ lãnh thổ của CHNDTH, hay “Đại lục Trung Quốc“ 中國大陸, mà không tính Hồng Kông và Ma Cao mặc dù 2 khu vực
này đã trở về với TQ vào năm 1997 và 1999.
Danh xưng Trung Hoa 中花 là viết tắt của Trung Hoa Dân Quốc 中華民國 thành lập năm 1912 sau cách mạng Tân Hợi 辛亥革命, tập hợp 5
dân tộc lớn là Hán 漢, Mãn 滿, Mông 蒙, Hồi 回, Tạng 藏 thành một nước.
[15] Thế mới
biết sự “bành trướng” của Trung Quốc quả là mãnh liệt. Nhưng chính nước này đã
từng 2 lần bị ngoại tộc cai trị (thời
Nguyên Mông (元朝, 1271 - 1368) và thời Mãn Thanh
(大清國, , 1644 - 1911)).
[16] Trung Hoa lập nước sớm
và có truyền thống trọng sử. Từ thế kỷ thứ VIII tCn đời Chu Tuyên Vương (周宣王, 827-782
tCn) đã có tín sử 信史 và từ
đó đời nào cũng có những sử quan 史官 chép sử kỹ, công tâm. Cổ xưa và có giá trị là các cuốn như: Sử Ký 史記 của Thái sử lệnh 太史令 Tư Mã Thiên (司馬遷, 145 – 86 tCn), Thượng thư đại truyện 尚書大傳,
Kinh thư 書經 do Khổng tử san định. Nhưng sử Hoa,
nếu dòng nào viết về sử Việt lại qua lăng kính “Thiên triều”của tư tưởng “Đại
Hán”, một số không ít đã được sáng tác với dụng ý xuyên tạc, bôi bác nguồn gốc
dân tộc, hạ thấp giá trị văn hóa nước Nam nên cần cẩn trọng khi sử dụng.
[17]Là: Nam Man 南蠻, Tây Nhung 西戎, Đông Di 東夷, Bắc Địch 北狄
[18] Bách Việt 百粵/ 百越, gồm:
Âu Việt 甌越 ở Chiết Giang 浙江, Mân Việt 閩越 ở Phúc Kiến 福建, Dương Việt 陽越 ở Giang Tây 江西, Nam Việt 南越 ở Quảng Đông 廣東, Lạc Việt 駱越 ở nước ta ngày nay.
[20] Ví dụ: Bắc Liêu (北遼, 1122-1123),
Bột Hải (渤海, Пархэ, Бохай, 698-926), Đại Lý
(大理, 937- 1253), Đông Đan (東丹, 926-936), Liêu (遼朝, 907-1125),
Nam Chiếu (南詔, 737-902), Vu Điền (于阗, 61-1759),...
[21] Khu tự trị
Duy Ngô Nhĩ Tân Cương hay Khu tự trị Uyghur Tân Cương là một khu vực tự trị và
chiếm 1/6 diện tích Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
[22] Mà phần lớn nay là Khu tự trị Tây Tạng (tiếng Tạng:
བོད་རང་སྐྱོང་ལྗོངས་; tiếng Trung giản thể: 西藏自治区; tiếng Trung: 西藏自治區 là một đơn vị hành chính cấp tỉnh của Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa.
[23] Chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc 中國膨漲主義, biểu hiện của Chủ nghĩa Đại Hán (大漢族主義 Đại Hán tộc chủ nghĩa, 漢沙文主義 Hán sô vanh chủ nghĩa), thể hiện trong
các hoạt động quân sự và các chính sách ngoại giao, là một nỗi lo ngại đáng kể
của các nước lân cận.
Triều đại đầu
tiên là nhà Tần đã thống nhất Trung Quốc từ việc đánh tan và hợp nhất 6 quốc
gia khác của thời Chiến Quốc ( 戰國時代/战国时代, kéo
dài từ khoảng thế kỷ 5 tCn-221 tCn) cũng như các lãnh thổ sinh sống bởi những
dân tộc không nói tiếng Trung. Từ vùng thung lũng sông Hoàng Hà 黃河, cùng với sự mở rộng lãnh thổ Trung Quốc,
nền văn minh Trung Hoa đã lan ra khắp các hướng, đặc biệt là về phía Nam. Trong
lịch sử Trung Quốc, lãnh thổ của quốc gia này mở rộng hay thu hẹp là phụ thuộc
sức mạnh của triều đại đương thời.
[24] Ông là người Hồi, tên khai sinh: Mã Tam Bảo (馬三寶 /马三宝, tên Ả Rập: Hajji Mahmud Shams), quê ở Côn Dương 昆阳 (nay là Tấn Ninh 晋宁, tỉnh Vân Nam 云南). Ông chính là người đã chỉ huy các chuyến thám
hiểm được gọi chung là 7 chuyến đi của "Thái giám Tam Bảo hạ tây
dương" (三保太監下西洋) hay "Trịnh
Hòa đến đại dương phía tây" từ năm 1405 đến năm 1433 ở khu vực ở châu Á và
châu Phi, có người nói rằng cả châu Mỹ.
[25] Thực ra, mưu đồ và chiến lược bành trướng biên
cương lãnh thổ TQ ra Biển Đông hình thành, họ đã nuôi dưỡng mưu đồ chiếm đoạt quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa của V. Lộ trình TQ thực hiện mưu đồ chiếm đoạt hai quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa của VN có thể chia làm 4 bước như sau:
- Bước 1,
sau 2 năm thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (1949-1951), lợi dụng uy tín của nước đồng minh chủ chốt ở Châu Á, tại
Hội nghị San Francisco năm 1951 giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ sau chiến
tranh thế giới lần thứ hai, TQ đã đề nghị Liên Xô kiến nghị các nước đồng minh
chống phát xít tham gia hội nghị trao quyền quản lý hai quần đảo Hoàng Sa, Trường
Sa cho TQ; nhưng, đã bị 46/51 nước phản đối. .
- Bước 2,
23 năm tiếp theo (1951-1974), TQ thực
hiện âm mưu dùng vũ lực trực tiếp chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa của VN, sau khi
quân đội Mỹ rút khỏi Miền Nam VN và khả năng phòng vệ của quân đội Việt Nam cộng
hòa bị yếu ớt. Quân đội TQ tấn công đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa, chiếm đóng
Hoàng Sa từ đó đến nay.
- Bước
3, 14 năm tiếp theo (1974-1988), tháng 4/1988 giới cầm quyền TQ cho quân đội tiến đánh
quần đảo Trường Sa, chiếm đóng đảo Gạc Ma từ đó đến ngày nay.
- Bước 4,
26 năm tiếp theo (1988-2014), tiếp tục
thực hiện mưu đồ chiếm đoạt Biển Đông, giới cầm quyền bành trướng TQ cho kéo đặt
giàn khoan Hải Dương 981 vào sâu trong thềm lục địa và vùng biển đặc quyền kinh
tế VN, đồng thời đem theo hàng trăm tàu hải giám, ngư chính, quân sự, dịch vụ
vào hộ vệ giàn khoan Hải Dương 981.
[26] Đã tìm hiểu ở đây:
http://menthuong.blogspot.com/2014/05/tim-hieu-ve-uong-luoi-bo.html
[27] Trích trong 三十六計
(Tam thập lục kế hay 三十六策,
Tam thập lục sách) là một bộ sách tập hợp 36 sách lược quân sự của Trung Quốc cổ
đại, ba mươi sáu kế bắt đầu xuất hiện từ thời Nam Bắc triều và tới thời nhà
Minh thì được tập hợp thành sách.
[28] Tỉnh lỵ tỉnh Tứ Xuyên 四川, một
trong những trung tâm giao thông vận tải và giao thương quan trọng của Trung Quốc,
được gọi là “Thiên Phủ Chi Quốc” 天府之國, có nghĩa là “đất nước thiên đường”.
Cuộc gặp diễn
ra tại đây giữa đại diện Việt Nam: TBT Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch HĐBT Đỗ Mười,
Cố vấn Phạm Văn Đồng viwus đại diện Trung Quốc: TBT Giang Trạch Dân, Thủ tướng
Lý Bằng bàn giải quyết vấn đề CPC và quan hệ 2 nước. Tại đây Giang trạch Dân đọc
câu thơ Đường: “Độ tận kiếp ba huynh đệ tại,
Trường phùng nhất tiếu mẫn ân cừu” (sau phong ba, bão táp, tình anh em vẫn
còn; gặp nhau mở một nụ cười thì xoá hết oán hờn). Hai bên đã ký biên bản nội bộ
gồm 8 điểm: giải quyết vấn đề CPC bằng giải pháp chính trị toàn diện, công bằng,
hợp lý, lập SNC gồm 13 thành viên do Sihanouk đứng đầu theo công thức 6+2+2+2+l
và song song từng bước cải thiện quan hệ 2 Đảng, 2 Nhà nước tiến tới bình thường
hóa quan hệ. ..”.
[29] sinh năm 1953 ở Bắc Kinh. Sau khi tốt nghiệp trung học, 9/1969 Vương Nghị trở
thành "thanh niên trí thức" xuống cơ sở lao động ở phía bắc hoang vu.
Sống trong quân ngũ ở Binh đoàn Xây dựng đông bắc Hắc Long Giang ám năm đén 02/1972,
quay về Bắc Kinh, thi vào khoa ngôn ngữ Á-Phi Học viện ngoại quốc ngữ thứ hai học
tiếng Nhật. Tháng 2 năm 1982 tốt nghiệp, nhận bằng cử nhân và được nhận vào Vụ
châu Á Bộ ngoại giao Trung Quốc. Năm 1989, được điều qua Đại sứ quán Trung Quốc
tại Nhật Bản, sau đó giữ chức Đại sứ từ
năm 2004 đến 2007 và từng là một chuyên gia về Triều Tiên. Ông còn giữ chức Chủ
nhiệm Văn phòng các vấn đề Đài Loan từ năm 2008. Ngày 16 tháng 3 năm 2013, ông
được Quốc hội Trung Quốc phê chuẩn vào chức Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc,
thay thế Dương Khiết Trì (杨洁篪, SN
1950).
[30] Có một bài nói chuyện vui : Người Mỹ sợ nhất là người Nhật
vì người Nhật không nói mà làm; Người Nhật sợ nhất người TQ vì người TQ đã nói
là làm; Người TQ sợ nhất người Việt Nam vì người VN "nói một đằng làm một
nẻo" xem ra đáng suy ngẫm bởi chưa đúng với người Tầu.
[31] Được tạo ra bằng cách giảm số nét viết của nhiều chữ Hán
truyền thống. Có chữ được đơn giản hóa bằng cách áp dụng các quy luật thông thường,
ví dụ như cách bằng cách thay thế một số bộ bằng bộ khác gần (theo cách mà chữ Hán đã được sáng tạo ra, đặc
biệt là chữ biểu thị âm và ý nghĩa). Nhưng nhiều chữ được đơn giản hóa
không theo quy tắc và nhiều chữ được đơn giản hóa thì không đồng dạng với chữ
truyền thống.
Phương án
giản hoá chữ Hán đã bộc lộ những bất hợp lý và thiếu chính xác nhưng vẫn chưa
được khắc phục kể cả 248 chữ Hán cần được
giản hoá ngay và 605 chữ Hán khác cần thảo luận.
Thực ra phương châm “16 chữ vàng” không phải bây giờ mới có. Ngay từ năm 1956, Mao Trạch Đông 毛泽东 khi bàn về 10 mối quan hệ 论十大关系 đã đề xuất phương châm: “trường kì cộng tồn, hỗ tương giam đốc” 长期共存,互相监督, tức là cùng tồn tại lâu dài, giám sát lẫn nhau. Sau đó, tại Đại hội lần thứ VIII 第八次全国代表大会của Đảng Cộng sản Trung Quốc 中国共产党 Lưu Thiếu Kỳ 刘少奇khi đọc báo cáo chính trị 的政治报 đã chính thức nêu đó là phương châm ứng xử của Đảng Cộng sản Trung Quốc với các đảng phái khác.
Trả lờiXóaTiếp theo tại Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc họp năm 1982 bổ sung thêm 8 chữ nữa là: “can đảm tương chiếu, vinh nhục dữ cộng” “肝胆相照,荣辱与共, tức là gan góc cùng chung, sướng khổ cùng hưởng thành phương châm 16 chữ.
Đảng Cộng sản Trung Quốc coi “十六字方针” là phương châm lãnh đạo xã hội quanh Đảng để thực hiện mục tiêu, kế hoạch. Nhưng thực tế lịch sử Trung Quốc, đặc biệt là trong Cách mạng văn hóa (文化大革命, 1966-1969)...làm thế giới đặt vấn đề về việc thực hiện phương châm 16 chữ đó!
Vậy phương châm 16 chữ trong quan hệ với Việt Nam (睦邻友好 全面合作 长期稳定 面向未来 “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”) liệu chỉ có thể là cái bánh vẽ không?