Từ dân chài lưới sống ven biển, họ Trần Hải Ấp bắt đầu tham gia chính sự ở cấp tối cao trong Vương triều tại kinh đô từ sau loạn Quách Bốc (郭卜, ?-?) năm 1209 - 1210 thời Hoàng đế thứ 7 nhà Lý (李朝, 1009–1225 ) là Lý Cao Tông (李高宗, 1173 –1210).
Ngày ấy, từ lúc chưa hồi triều, để trả ơn và lấy lòng Trần gia, Lý Sảm đã phong cho thủ lĩnh trong vùng, cũng là chủ nhà bao chứa, cùng là bố vợ mình là Trần Lý (陳李, 1151 – 1210) tước Minh Tự 明字, phong cho em vợ Lý là Tô Trung Từ (蘇忠詞, ?-1211) làm Điện tiền chỉ huy sứ 殿前指揮使. Cái “điềm mất nước” cũng từ cái tính tự tiện phong quan này mà ra!
Chính vì có công dẹp loạn và tôn phò Thái tử Lý Sảm (李旵太子, 1194-1226) nên họ Trần Hải Ấp 陳海邑 được trọng dụng khi Thái tử hồi kinh. Đặc biệt, từ khi Lý Sảm lên nối ngôi, tức là Lý Huệ Tông (李惠宗, 1210 – 1224), lập Trần Nhị Nương (陳二娘, tức Trần Thị Dung, con Trần Lý) làm Nguyên phi 元妃 thì thanh thế họ Trần càng lớn. Bà này là con gái của Trần Lý (陳李, 1151 – 1210, tổ Hoàng tộc Trần ở Hải Ấp), em gái của Trần Thừa (陳承, 1184 – 1234) và Trần Tự Khánh (陳嗣慶, ? - 1223), chị của Trần Tam Nương và cũng chính là người yêu của em họ mình là Trần Thủ Độ. Theo vai vế trong họ, bà là cô ruột của Trần Cảnh và Trần Liễu.
Chú ý rằng, sau loạn Quách Bốc, họ Lý vẫn làm Vua, nhưng thực quyền nằm trong tay họ Trần. Trần Lý (con trai Trần Hấp 陈翕, cháu nội của Trần Kinh 陳京, người nuôi giấu, giúp đỡ và là bố vợ, có nhiều công sức trong việc bảo vệ Hoàng Thái tử Lý Sảm) lại bị một thế lực khác hại chết, khi chưa được hưởng thành quả của mình. Từ đó, quyền hành về tay con thứ của ông là Thuận Lưu Bá 順流伯 Trần Tự Khánh, sau thăng Chương thành hầu 彰誠侯, còn Trung Từ làm Thái uý phụ chính 太尉輔政. Về sau, do Thái hậu không ưa nên Nguyên phi và Tự Khánh ít được tin dùng. Khi Trần Thị Dung được sách phong Kiến Gia hoàng hậu (建嘉皇后, 1193 - 1259), Tự Khánh được gia thăng Thái uý phụ chính, Trần Thừa làm Nội thị phán thủ 内侍判首 thì tình hình lại khác. Từ năm 1217, Vua trở bệnh nặng, không quyết đoán được, mọi việc trong triều giao phó cả cho Trần Tự Khánh. Đang lên thì vào năm 1223, Trần Tự Khánh chết, được truy phong Kiến Quốc Đại Vương 建國大王; Huệ Tông lấy Trần Thừa làm Phụ quốc Thái uý 輔國太尉, quyền vẫn trong tay họ Trần.
Từ năm 1224, bệnh Vua càng trầm trọng, khi đó một người cháu của Trần Lý là Trần Thủ Độ (陳守度, 1194-1264) với vai trò chỉ huy sứ 指 揮 使 quản lĩnh các quân điện tiền hộ vệ cấm đình 殿前諸軍扈衛 庭 lại sẵn mưu lược, quyết đoán có vị trí chi phối lớn, dần làm chủ “cuộc chơi”!.
Trần Thủ Độ sinh tại làng Lưu Xá, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; là cháu của Trần Lý, em họ của Trần Thừa và Trần Tự Khánh, Trần Thị Dung. Năm 1224, khi đang là Điện tiền Chỉ huy sứ 殿前指揮使 có quyền coi giữ mọi việc quân sự trong ngoài thành thị, ông ép Lý Huệ Tông lên làm Thái thượng hoàng 太上皇 để nhường ngôi cho con gái Phật Kim, tức là Lý Chiêu Hoàng (李昭皇, 1224 - 1225), khi đó mới lên 7 tuổi. Sau đó ông đưa con Trần Thừa là Trần Cảnh (陳煚, 1218 –1277), vào hầu Lý Chiêu Hoàng là Chính thú 政首, rồi dàn xếp để Trần Cảnh lấy Nữ Hoàng và “đạo diễn” chuyện “Vợ nhường ngôi cho Chồng”, chuyển ngai vàng sang họ Trần vào cuối năm 1225. Thượng hoàng Lý Huệ Tông bị ép xuất gia, tu ở chùa Chân Giáo 真教 trong Đại nội, trở thành sư Huệ Quang 惠光大師.
Việc thành, Trần Thủ Độ được phong là Thái sư thống quốc hành quân vụ chinh thảo sư 太師綂國行軍務征討事. Cũng bởi Vua Trần Thái Tông Cảnh còn nhỏ nên Thái sư Trần Thủ Độ cùng Thái úy 太尉 Trần Thừa làm nhiếp chính.
Trong lịch sử Việt Nam, đây là cuộc “đảo chính cung đình” ngoạn mục, thành công nhất lại không hề có đổ máu! Về chuyện này, Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: “Thái tử [Sảm] đi lần này là vì nước loạn mà tránh nạn, sao lại buông lòng dâm dục ở ngoài mà tự tiện phong tước cho người? Bởi Cao Tông rong chơi vô độ, giường mối bỏ hỏng, cho nên mới thế. Nhưng họ Lý nhân thế mà vong, họ Trần nhân thế mà hưng, ấy là do trời cả.”
Vua đầu tiên của triều trần (陳朝, 1225–1400) là Trần Cảnh, tức Trần Thái Tông (陳太宗, 1226 –1258), ở ngôi hơn 32 năm (1225-1258), làm Thái Thượng Hoàng 太上皇 19 năm.
Các đời vua tiếp là: Thánh Tông Hoảng (陳聖宗晃,1258-1278); Nhân Tông Khâm (陳仁宗昑, 1278-1293); Anh Tông Thuyên (陳英宗烇, 1293-1314); Minh Tông Mạnh (陳明宗奣, 1314-1329); Hiến Tông Vượng (陳憲宗旺, 1329-1341); Dụ Tông Hạo (陳裕宗暭, 1341-1369); Hôn Đức Công Dương Nhật Lễ (昏德公楊日禮, 1369-1370); Nghệ Tông Phủ (陳藝宗暊, 1370-1372); Duệ Tông Kính (陳睿宗曔, 1373-1377); Phế Đế Hiện (陳晛,1377-1388); Thuận Tông Ngung (陳順宗顒, 1388-1398); Thiếu Đế An (陳安, 1398-1400).
Ngoài ra, cũng nên biết đến những ông vua họ Trần, thuộc dòng dõi trên, được lập ra hay tự xưng thời nước ta thuộc Minh (北屬吝次四 , 1407-1427) mà sử cũ có sách chép là nhà Hậu Trần (後陳朝, 1407-1414), là Giản định đế Ngỗi (陳簡定帝頠, 1375 – 1410), Trùng Quang Đế Khoáng (陳重光帝擴, ? –1414). Cũng nên kể thêm ông “Vua bù nhìn” Thiên Khánh đế Trần Cảo (天慶帝陳暠, ?-1428) từng là “bình phong” để Bình Định vương Lê Lợi kháng Minh thắng lợi.
Nhà Trần có một thời rất hưng thịnh, đã từng đại phá quân Nguyên (元朝, 1227-1368) từng được mệnh danh bách chiến bách thắng tới ba lần (vào các năm 1258, 1285 và 1288) cũng như bình được Chiêm Thành, mở mang bờ cõi, dẹp loạn trong nước. Vì vậy mà Việt sử diễn âm đã ca ngợi:
Dẹp yên bốn bể ở ngôi cao,
Chốn chốn khôn dung thỏa chí hào.
Văn đức đã chăm, chăm viễn phạt,
Cờ mao tiến thẳng chốn thiên tào.
Chính dòng họ Trần đã sản sinh ra nhiều anh hùng dũng tướng, tạo nên hào khí Đông A 東阿 lưu truyền hậu thế. Đáng kể là: Trần Thủ Độ, Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải (陳光啓, 1241-1294), Trần Nhật Duật (陳日燏, 1255 – 1330), Trần Khánh Dư (陳慶餘, 1240-1340), Trần Bình Trọng (陳平仲, 1259 - 1285), Trần Quốc Toản (陳國瓚, 1267 - 1285), Trần Khát Chân (陳渴真, 1370 – 1399), ...
Một trong những danh nhân thời này là Trần Quốc Tuấn (陳國峻,1228 (1230, hay 1232? -1300), con của An Sinh thân vương 安生王 Trần Liễu (陳柳, 1211 - 1251) và là cháu nội của Thái Tổ 陳太祖 Trần Thừa. Vì nghĩa lớn, Vương đã “dẹp” cái “tôi” để dốc lòng lo việc nước, chủ động xóa hiềm khích với chủ động gạt bỏ hiềm khích với Thượng tướng Thái sư 上將太師 Chiêu Minh Đại vương 昭明大王 Trần Quang Khải (陳光啓, 1241 – 1294), tiến cử người tài giỏi, kính cẩn giữ tiết làm tôi, nêu tấm gương sáng về “toàn dân đoàn kết, anh em đồng lòng, cùng nhau giết giặc”. Ông có công đầu trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông và là tác giả của Binh gia diệu lý yếu lược (quen gọi là Binh thư yếu lược), Vạn Kiếp tông bí truyền thư, Hịch tướng sĩ (諭諸裨將檄文, Dụ chư tỳ tướng hịch văn)…Ông được triều đình phong là Thái sư Thượng phụ Thượng Quốc công Bình Bắc đại Nguyên soái Hưng Đạo Đại vương 太師 尚父上國公 平北大元帥 興道大王, được nhân dân suy tôn là Thánh 聖. Ngay Nguyên sử 元史, mặc dù rất hận, vẫn tỏ ra kính trọng Ngài bằng cách không dùng tên húy của Ngài mà gọi là Hưng Đạo Vương. Trong dân gian Trung Hoa vẫn thường doạ con nít: “Hình tầu tài òng” (Hưng đạo đại vương). Tháng 2 năm 1984, Viện Khoa Học Hoàng Gia Anh, trong cuốn Bách Khoa Toàn Thư nước Anh (xuất bản năm 1991) ông được suy tôn là 1 trong 10 tướng soái tài ba nhất trong các thời đại.
Công bằng mà nói, thời đó cũng có những hoàng thân quốc thích đi lạc ngõ, có thể kể đến: Chiêu Quốc vương 昭國王 Trần Ích Tắc (陳益稷, 1254 – 1329, con của Trần Thái Tông, em cùng cha khác mẹ với Trần Thánh Tông) từng đem gia quyến hàng Nguyên và được kẻ xâm lược phong làm An Nam quốc vương; 安南國王; đó là Chương Hiến Thượng hầu 彰憲上侯 Trần Kiện (陳鍵, ? – 1285, con của Tĩnh Quốc vương Trần Quốc Khang, cháu nội Trần Thái Tông) dao động, đầu hàng khi giặc Nguyên tấn công.
Trong những ông Vua nhà Trần có Trần Nhân Tông vào năm 1299, dưới sự hướng dẫn của thiền sư Tuệ Trung Thượng Sỹ Tung (慧中上士嵩, 1230 - 1291), xuất gia và lên tu ở núi Yên Tử, thuộc huyện Đông Triều, Quảng Ninh, thống nhất các phái, lập nên Thiền phái Trúc Lâm 竹林禪派, trở thành Phật Hoàng với pháp danh Hương Vân Đại Đầu đà 香雲大頭陀 và đạo hiệu là Trúc Lâm Đại Đầu đà 竹林大頭陀 hay Trúc Lâm Đại sĩ 竹林大士 và Giác hoàng Điều ngự 覺皇調御.
Triều Trần cũng là triều đại dám hi sinh Lá ngọc cành vàng của Hoàng tộc vào lợi ích quốc gia. Đó là trường hợp An Tư Công chúa 安思公主 được dâng cho tướng giặc là Trấn Nam vương 镇南王 Thóat Hoan (脫驩, ? – 1301) đổi lấy thời gian củng cố lực lượng dẫn đến phản công và chiến thắng của nhà Trần vào năm 1285. Đó là việc Công chúa Huyền Trân 玄珍公主 được gả cho Chế Mân (製旻, Jaya Simhavarman III, vua thứ 12 của Triều đại thứ 11, trị vì 1288 – 1307) vào năm 1306 để đổi lấy hòa hiếu Việt-Chăm và đất châu Ô (烏州, nay là vùng nam tỉnh Quảng Trị), châu Lý (李州, nay là vùng Thừa Thiên Huế) của Vương quốc Champa (Campanagara, tức Chiêm Thành 占城, 875-1694).
Vì những thành tựu nổi bật đó mà nói đến thời đại này, sử sách hay đưa câu “Hào Khí Đông A”. Điều đó không chỉ, về Hán tự, chữ “trần” (陳) được ghép từ chữ “Đông” (東) và chữ “a” 阿 (chính xác ra đó không phải là chữ “a” 阿 bởi thiếu chữ “khả” 可, mới có bộ “phụ” 阜 , song nói riết thành quen). Điều cơ bản là tinh thần bất khuất, dũng cảm, quyết chiến quyết thắng, trên dưới đồng lòng của Vua-Quan-Quân-Dân nhà Trần, tất cả đều biết “hi sinh vì nghĩa lớn”!.
Nhưng kể từ khi Thái thượng hoàng Trần Minh Tông 明宗孟 qua đời (1357), vua Trần Dụ Tông ham mê tửu sắc, phó mặc mọi việc triều chính cho các Đại thần, thêm vào đó, sự mục nát và yếu kém của hệ thống quan lại để cho nhà Trần bước vào giai đoạn suy vi, nhiều lần bị Chiêm Thành lấn lướt và sau cùng bị mất ngôi vào tay nhà Hồ (茹胡, 1400-1407).
Dưới triều Trần, có chuyện “Thế huyết hoán chủng” 替血換種. Bởi vị Vua thứ 7 là Dụ Tông không có con nên khi mất (1469), có người muốn lập Cung Ðịnh vương Trạch (恭信王陈善泽, ? - 1379) là anh Dụ Tông lên làm vua, có quan lại bàn “anh không lẽ lại kế tự em” rồi Hiến Từ Tuyên Thánh Hoàng hậu (憲慈宣聖皇后, 1299 - 1369, mẹ đẻ Dụ Tông) quyết lập con nuôi của Cung Túc vương Dục (恭肃王陳元昱, ? - 1364) là Dương Nhật Lễ (楊日禮, ?-1370) lên ngôi. Thực chất, mẹ Nhật Lễ là một đào hát, từng lấy một kép hát là Dương Khương có thai rồi mới lấy Cung Túc vương sinh ra Nhật Lễ. Khi lên ngôi, Nhật Lễ muốn cải họ Dương để dứt ngôi nhà Trần nên giết bà Hoàng thái hậu cùng Cung Tĩnh vương. Cung Định vương vốn nhu nhược thấy thế bỏ trốn lên Ðà Giang. Trước tình hình nội chính rối ren, các tôn thất nhà Trần hội nhau khởi binh về bắt giết Nhật Lễ rồi rước Cung Định vương Phủ (恭定王陳暊, 1321-1395) về làm vua, tức Trần Nghệ Tông (陳藝宗, ở ngôi 1370-1372). Ngôi lại về nhà Trần.
Nhà Trần còn để lại dấu ấn trong lịch sử bởi quy định các bậc vua, vương, hầu chỉ lấy vợ là người trong Hoàng tộc. Điều này do Trần tộc vốn xuất thân dân chài thường có tục như vậy, hơn nữa là do Trần Thủ Độ sợ họ ngoại lấn quyền rồi cướp ngôi như mình từng làm với nhà Lý nhưng lại trái luân thường bởi người Việt cho là loạn luân. Như vậy, nhà Trần bắt đầu khi vua Thái Tông lên ngôi năm 1225 sau khi giành được quyền lực từ tay nhà Lý và chấm dứt khi vua Thiếu Đế, khi đó mới có 5 tuổi bị ép thoái vị vào năm 1400 để nhường ngôi cho ông ngoại là Hồ Quý Ly (黎季犛, 1336 – 1407, là cháu của Minh Từ thái phi 明慈太妃 và Hiến Từ Hoàng thái hậu 憲慈皇太后), chấm dứt 175 năm trị vì của dòng họ này. Thần quyền Trần tộc rơi vào tay họ ngoại chứng tỏ dù đã lo và phòng xa nhưng người khai quốc triều Trần cũng đâu lường và chống nổi xu thế lịch sử !
Thời cực thình, các vua Trần không kể gì đến thân hay sơ trong việc dùng người, nhà vua chỉ căn cứ vào tài năng mà cho chấp chánh chứ không cứ phải là người họ Trần. Do vậy nói đến thời đại này không thể không kể đến các võ tướng, văn thần tuy không là tôn thất như tài cao, trí lớn đóng góp nhiều cho dân tộc. Đó là: tướng quân Phạm Ngũ Lão, Trạng nguyên Nguyễn Hiền, sử gia Lê Văn Hưu, nho thần Đoàn Nhữ Hài, Trương Hán Siêu, Trạng nguyên Mạc Đính Chi...
Đặc biệt phải kể đến Chu Văn An (周文安, hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt, 1292–1370). Ông quê làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là huyện Thanh Trì – Hà Nội), từng đỗ Thái học sinh nhưng không ra làm quan mà mở trường dạy học ở làng Huỳnh Công, bên kia sông Tô, ông có công lớn trong việc truyền bá, giáo dục tư tưởng đạo đức Khổng giáo vào Việt Nam, là thày học của Thái tử Trần Vượng, tức là vua Trần Hiến Tông sau này. Tên thật là Chu An, được phong tước Văn Trinh Công nên đời sau quen gọi là Chu Văn An. Đến đời Dụ Tông, ông thấy quyền thần làm nhiều điều vô đạo, ông dâng Thất trảm sớ 七斬疏 xin chém 7 tên gian nịnh, nhưng vua không nghe. Ông chán nản từ quan về ở núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương) dạy học, viết sách, được suy tôn là Tổ sư nghề Dạy học của Đại Việt.
Ngoài chiến công quân sự, ngoại giao, nhà Trần đã đặt vấn đề sọan quốc sử. Trước hết là bộ “Đại Việt sử ký” của Lê Văn Hưu (黎文休, 1230-1322), được soạn xong vào năm 1272...
Kiến trúc thời Trần không huy hoàng như thời Lý nhưng cũng có những công trình quan trọng như tháp mộ của vua Trần Nhân Tông trước chùa Phổ Minh ở Tức Mặc (Nam Định) xây năm 1310, thành ở Thanh Hóa (1397). Đây cũng là thời kỳ manh nha của nghệ thuật Chèo và Nho giáo phát triển song song cùng Phật giáo (vị vua thứ ba của nhà Trần tức là Trần Nhân Tông sáng lập ra phái Trúc Lâm Yên Tử, phái thiền tư của Việt Nam) và đồng thời Lão giáo cũng được ưa chuộng.
Như thế, giành được quyền lực từ tay nhà Tiền Lê (黎朝, 980–1009), nhà Lý (李朝, 1009-1225), bắt đầu khi Lý Công Uẩn lên ngôi vào tháng 10 âm lịch năm 1009 sau khi, trải qua 9 vị hoàng đế và chấm dứt khi Lý Chiêu Hoàng, bị ép thoái vị để nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh vào năm 1225 – tổng cộng là 216 năm. Từ đây nhà Trần (陳朝, 1225–1400) kế tiếp cai quản Đại Việt (大越, 1054-1400, 1428-1802), dẫn dắt quân dân ta lập nhiều chiến công hiển hách.
Song sau 175 năm nắm giữ Vương triều, thần quyền nhà Trần cũng lại mất bởi ngoại thích và chuyển sang cho họ Hồ (茹胡, 1400-1407).
Sự nghiệp củng cố, mở mang đất nước, chống xâm lăng của triều Trần đã để lại trong lòng dân chúng một niềm mến phục sâu xa. Cho nên khi Hồ Quý Ly giành ngôi nhà Trần, dù có nhiều cải cách quan trọng và tích cực, nhưng lòng người vẫn còn nhớ đến các vua Trần. Song hào khí Đông A thuở nào đã cạn nên dù có nhà Hậu Trần gắng gượng trỗi dậy nhưng rồi cũng chẳng thành công!
Lòng dân ly tán để rồi đất nước Đại Việt lại bước vào thời Bắc thuộc lần thứ Tư (北屬吝次, 1407-1427) dưới ách đô hộ bạo tàn của quan quân nhà Minh (大明, 1368–1644).
Trời vẫn thương dân Việt nên sau 10 năm kháng chiến, cuộc khởi nghĩa chống Minh (蓝山起义, 1418-1427) của Lê Lợi (黎利, 1385-1433) toàn thắng, Bắc Bình định vương 北平定王 lên ngôi, tức Lê Thái Tổ (黎太祖, 1428-1433), lấy lại tên nước là Ðại Việt và lãnh thổ nước ta lúc này về phía Nam đã tới Huế. Từ đây Đại Việt dưới sự trị vì của nhà Hậu Lê (後黎朝, 1428–1789, phân biệt với nhà Tiền Lê (前黎朝, 980–1009) do Lê Hoàn (黎桓, 941-1005) lập ra cuối thế kỷ X).
175 năm trị vì, Trần triều tuy có những chuyện bi hài, những ông vua kém cỏi song vẫn là một triều đại rực rỡ những chiến công, làm được nhiều việc cho dân, cho nước trên mọi phương diện!
Tôi tự hào về triều đại này, về thời đại rạng ngời HÀO KHÍ ĐÔNG A với những ông vua anh minh, những đại thần sáng suốt, những tướng lĩnh quả cảm, mưu lược, những học giả uyên thâm, những giá trị cao đẹp về văn hóa, xã hội, kiến trúc cùng những bài học sâu sắc bi ai mà triều đại đó để lại cho Đại Việt!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng nguyên tắc cộng đồng và sở nguyện cá nhân