Không rõ tự bao giờ, thuật ngữ “lợi ích nhóm” lại được sử dụng trong khẩu ngữ, trong các bài viết nhiều như thế. Nhưng không phải đến nay mới có “lợi ích nhóm” mà vấn nạn “phe cánh”, “lợi ích nhóm” nó manh nha, xuất hiện, tồn tại và phát triển cùng với việc hình thành giai cấp và nhà nước!
Ngược dòng lịch sử chúng ta biết có một vụ án “oan tầy đình” ở cấp tối thượng, đánh dấu bước ngoặt đưa một triều đại huy hoàng của Đại Việt dần suy tàn rồi bị tiêu diệt!
Đó chính là câu chuyện oan khiên của Huệ Vũ đại vương Trần Quốc Chẩn (惠武大王陳國瑱, 1281 - 1328), một nhân vật chính trị trọng yếu và là hoàng thân của triều đại nhà Trần (陳朝, 1225–1400) xẩy ra vào năm 1328!.
Theo thứ bậc Trần tộc, ông là con trai thứ của vị vua thứ 3 triều trần là Trần Nhân Tông (陳仁宗, 1258 –1308), em của Trần Anh Tông (陳英宗,1276 – 1320) và là chú của vị Vua thứ 5 là Trần Minh Tông (陳明宗, 1300 –1357). Một số tư liệu cho rằng, Trần Quốc Chẩn chính là cháu ngoại Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn (陳興道, ? – 1300).
Nhớ rằng, nhà Trần từ vai trò là ngoại thích đã giành ngôi nhà Lý bằng biện pháp hôn nhân (vào năm 1225 khi Trần Cảnh (陳太宗, 1218 – 1277) được vợ là Lý Chiêu Hoàng (李昭皇, 1218 - 1278), Vua thứ 8 triều Lý truyền ngôi). Do đó, để tránh họa ngoại thích, nhà Trần chủ trương chỉ kết hôn với người trong họ. Vì vậy, không lạ gì con gái Trần Quốc Chẩn, tức em họ vua Trần Minh Tông là Huy Thánh Công chúa 徽聖公主 lấy vua và sau được lập làm hoàng hậu, tức Hiến Từ Tuyên Thánh Hoàng hậu (憲慈宣聖皇后, 1299 - 1369) nên Quốc Chẩn còn là bố vợ vua và là ông ngoại của vị vua thứ 7 Trần Dụ Tông (陳裕宗 , 1336 –1369) sau này.
Cũng vì có vị trí như vậy trong Trần tộc nên quan lộ của Trần Quốc Chấn rất hanh thông: từ năm 13 tuổi, ông đã được phong Huệ Vũ đại vương 惠武大王, 9 năm sau ông được phong chức Nhập nội Bình chương 入 內平 章, tương đương Tể tướng 宰相. Sau khi trở thành bố vợ vua, vào tháng 4 năm Giáp Tý 1324 ông được bổ nhiệm làm Quốc phụ Thượng tể 國父上宰- chức quan đầu triều coi giữ Lục bộ Thượng Thư 六部尚書, trên cả ngạch Tể tướng.
Trần Quốc Chẩn không chỉ là người có tài trong việc cầm quân xung trận mà ông còn là người nổi tiếng đức độ, được các quan trong triều hết lòng nể phục. Do vậy, ông được đánh giá là một trong những nhân vật chính trị kiệt xuất của nhà Trần, trở thành trụ cột chính của triều đại này giai đoạn đó.
Nhưng một rắc rối đang chờ ông và rắc rối trở thành họa diệt thân khi các nhân vật trọng yếu khác “có chung lợi ích với nhau” đã liên kết lại mưu hại ông.
Số là đến năm 1328, Trần Minh Tông đã ở ngôi được 15 năm, Hoàng hậu đã nhập cung được 5 năm mà vẫn chưa sinh được Hoàng nam nên Vua và triều đình tới năm đó mà chưa lập Thái tử 太子. Từ thuở lập quốc, nhà Trần có lệ đều lập con của các hoàng hậu, hoàng phi xuất thân trong hoàng gia kế vị mà không lập con của người khác họ lên ngôi, cốt là để tránh họa ngoại thích mà bản thân họ Trần đã dùng khi thay ngôi nhà Lý. Nên khi đó các thứ phi đã sinh được các hoàng tử Trần Vượng 陳旺, Trần Nguyên Trác 陈元晫, Trần Phủ 陳暊 nhưng mẹ đều là con các quan lại cấp thấp họ Lê còn bản thân Hoàng hậu họ Trần là Hiến Từ Hoàng hậu vẫn chưa sinh được con trai. Vì vậy vua dùng dằng chưa quyết người làm chủ Đông cung.
Người rắp tâm đưa con mình lên ở Đông cung nhắm tới ngôi báu sau này là Anh Tư Nguyên Phi ((英姿元妃, ?-1365), một phi tần của Trần Minh Tông. Bà người họ Lê, không rõ tên thật là gì, được Trần Minh Tông yêu mến và phong dần đến bậc Nguyên Phi (chỉ thấp hơn Hoàng Hậu). Bà đã sinh cho Trần Minh Tông hai Hoàng tử, là Hoàng tử trưởng Trần Vượng sau là vua Trần Hiến Tông (陳憲宗, 1319 – 1341) và Hoàng tử thứ ba Trần Phủ sau là vua Trần Nghệ Tông (陳藝宗, 1321 – 1395).
Các quan trong triều bấy giờ chia làm hai phái:
Trần Quốc Chẩn với vai trò là cố mệnh đại thần từng được Tiên đế gửi gắm, lại là bố đẻ của hoàng hậu, nên cố chấp, cho rằng phải đợi khi nào hoàng hậu sinh con trai thì sẽ lập làm Thái tử. Việc này đúng lệ và ông cũng có “lợi” ở đây!. Trần Quốc Chẩn không chỉ là Hoàng Thúc, là cha vợ Vua mà còn là đại thần tin cẩn, đức cao vọng trọng, nếu giờ đây lập Thái Tử thì Trần Minh Tông không biết phải ăn nói thế nào với cha vợ.
Trái lại, phe của Cương Đông Văn Hiến hầu (文憲侯, con hoặc em của Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật (昭文王陳日燏, 1255 – 1330)) và Thiếu bảo Trần Khắc Chung (陳克終, 1247 – 1330) ủng hộ lập con của Quý phi Lê thị là Vượng làm thái tử.
Nên biết rằng Trần Khắc Chung tên thật là Đỗ Khắc Chung 杜克終, người ở Giáp Sơn (Kinh Môn, Hải Dương nay), nhờ công lớn trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai (năm 1285), nên vào năm Trùng Hưng thứ 5 (1289), ông được Nhân Tông ban quốc tính, đổi là Trần Khắc Chung, lại được nhận chức Đại hành khiển 大行 遣, sau thăng Ngự sử đại phu 御史大夫. Thời Trần Anh Tông băn khoăn chọn Thái tử là Trần Khắc Chung đã được thăng Thiếu bảo 少 保, hành Thánh Từ cung Tả ty sự, hàm Đồng trung thư môn hạ bình chương sự 同中書門下平章事, tức Tể tướng đương quyền
Trần Minh Tông không biết tính thế nào, bèn đem ra bàn trong triều đình. Triều thần vẫn căng cứng giữa 2 phe!. Nhóm Văn Hiến hầu và Thiếu bảo cho rằng nên lập Hoàng Tử trưởng Trần Vượng. Riêng Quốc phụ vẫn có ý chờ Hoàng hậu sinh Hoàng nam. Nghe Trần Quốc Chẩn tâu có lý lại viện dẫn cả tiền lệ, triều thần trở nên im lặng. Vốn là người khoan hậu nên Vua không thúc ép và không lộ rõ sự phật ý của mình. Dẫu vậy, trong lòng nhà vua không vui và gợn chút buồn bực với Huệ Vũ vương.!
Bộ ba “chung lợi ích” Lê Quý phi, Hiến Văn Hầu, Thiếu bảo bàn bạc tìm đối sách. Nhận rõ, sở dĩ Trần Minh Tông còn chần chừ chưa quyết là bởi nhà Vua e ngại uy thế của Trần Quốc Chẩn. Họ cũng biết rằng uy danh của Trần Quốc Chẩn tuy lớn nhưng không thể tránh khỏi con mắt nghi kị, dò xét của nhiều người. “Bộ ba nhóm lợi ích” quyết tận dụng và đánh vào điểm yếu ấy.
Để hạ bệ Hiến Từ Hoàng hậu, Cương Đông Văn Hiến hầu đã đưa 100 lạng vàng cho gia nô của Quốc Chẩn là Trần Phẫu, xúi Phẫu tố giác Quốc Chẩn có ý mưu phản. Tin là thực, ngay lập tức, nhà vua truyền lệnh bắt giam Quốc Chẩn vào chùa Tư Phúc trong hoàng thành Thăng Long, rồi hỏi Trần Khắc Chung về vấn đề này.
Vốn cùng quê Giáp Sơn với quý phi họ Lê, và từng là thầy học của Hoàng tử Vượng là cùng phe, có chung “lợi ích nhóm” với Văn Hiến hầu nên Khắc Chung đã thuyết phục Minh Tông bằng câu: “bắt hổ thì dễ, thả hổ thì khó”. Nghe lời Khắc Chung, Minh Tông truyền bắt Quốc Chẩn không được ăn uống, bắt phải tự tử.
Thương cha, Hoàng Hậu lén vào thăm và tẩm nước vào áo rồi vắt cho cha uống. Chẳng ngờ, Lê Nguyên phi là mẹ thái tử Vượng muốn cho Trần Quốc Chẩn chết sớm để con mình được lập làm thái tử, liền cho người mang nước tẩm độc cho Quốc Chẩn uống, uống xong thì chết vào cuối Xuân 1328!. Biết tin, Trần Minh Tông đã xuống chiếu lột hết quan tước của cha vợ. Án oan của Trần Quốc Chẩn còn liên lụy đến hơn 100 người thân thuộc. Tất cả họ đều bị bắt, bị tra khảo và gán cho những tội danh khác nhau. Riêng Hoàng Hậu may mắn không bị truy vấn điều gì và vẫn giữ được ngôi vị.
Việc Trần Quốc Chẩn bị chết đã chấm dứt sự đoàn kết, tin tưởng lẫn nhau trong hoàng tộc Trần – vốn là sức mạnh của các triều vua trước. Vua trở thành cô độc. Sự khuyên bảo từ các tôn thất cao niên và sự phục vụ trung thành từ các tôn thất trẻ trở nên suy giảm!.
Năm Kỷ Tị, Khai Thái năm thứ 6 (1329), ngày 7 tháng 2 âm lịch, Minh Tông lập Trần Vượng làm Đông cung Hoàng thái tử, đến ngày 15 tháng 2 thì chính thức nhường ngôi, Thái tử Vượng lên ngôi, sử gọi là Trần Hiến Tông. Từ đây, ngoại thích bắt đầu can dự và triều chính họ Trần!.
Sử quan triều Lê Ngô Sĩ Liên có nhận xét về việc này: “Còn như Trần Khắc Chung cũng là nhân vật của một thời, vua trao cho hắn chức vị Sư bảo, và đem việc nước hỏi hắn, đáng lẽ phải hết lòng trung khuyên can, để cho vua mình trở thành Nghiêu Thuấn mới phải. Thế mà lại vào hùa với kẻ quyền quý, làm hại người ngay thẳng, đi theo bọn gian tà, đẩy người lành tới nỗi oan khiên, hãm đức vua vào việc làm tội lỗi. Việc ấy mà nhẫn tâm làm được, thì còn việc gì mà không nhẫn tâm làm nữa?”
Tổng quan sự việc, Ngô Sỹ Liên viết: “Ngôi thái tử là gốc của nước, không thể không lập sớm. Phận chính đích không thể để chi thứ phạm bừa. Vua ở ngôi đã lâu, con thứ đã lớn rồi mà con chính đích chưa sinh, thì làm thế nào? Tòng quyền là phải. Đợi con đích là chấp kính, lập con thứ là tòng quyền. Đến khi con đích sinh ra, lớn lên, thì gia phong cho con thứ tước vương, còn ngôi thái tử trả về con đích, ai bảo là chẳng nên?
Có người hỏi rằng: "Lỡ có chuyện không lành, vua cha mất trước thì nguy lắm".
Xin thưa: Hãy chăm chú vào lời dạy thường ngày, nhận rõ lấy những lời trong di chiếu, chọn người bề tôi xã tắc, ủy cho việc gửi gắm con côi, thì không có lo gì. Huống chi Minh Tông chính mình ở vào cảnh ấy rồi, tất nhiên có thể xử trí được ổn thỏa. Quốc Chẩn là người cố chấp không linh hoạt, để cho kẻ gian thần thừa dịp gieo vạ, đáng thương thay.”
Một thời gian sau, hai người vợ Trần Phẫu ghen nhau, tố giác việc Phẫu nhận vàng của Văn Hiến hầu. Vua sai bắt giam Phẫu và giao ngục quan Lê Duy tiến hành xét xử, khép vào tội lăng trì. Bản án chưa kịp thi hành thì gia nô của Thiệu Võ, con trai Trần Quốc Chẩn, đã giết Phẫu làm thịt. Minh Tông tha chết cho Văn Hiến hầu, nhưng xoá tên khỏi hoàng gia và giáng làm thứ dân.
Trần Khắc Chung sau khi chết cũng bị người nhà của Trần Quốc Chẩn quật mồ băm xác.
Trần Minh Tông về cuối đời thường bị ám ảnh về việc không ngăn chặn cái chết của Trần Quốc Chẩn. Nhà Vua sửa sai bằng cách khôi phục lại quan tước và hạ lệnh xây một ngôi đền để thờ cúng Trần Quốc Chẩn.
Năm Khai Hựu thứ 13 (1341), mùa hạ, tháng 6, Trần Hiến Tông ở ngôi được 13 năm thì qua đời, không có con cái.
Lúc này, Lệ Thánh Thái thượng Hoàng hậu đã sinh ra Cung Túc vương Trần Nguyên Dục 陳元育, Thiên Ninh Công chúa Trần Ngọc Tha 陳玉他 và Hoàng tử Trần Hạo 陳暭. Cung Túc vương Nguyên Dục theo vai vế dĩ nhiên sẽ trở thành người kế vị, nhưng lấy lý do "là người ngông cuồng", Minh Tông không vừa ý, còn Trần Hạo tuy chỉ mới 6 tuổi nhưng lại thông minh nhanh nhẹn, nên Minh Tông chọn làm Hoàng đế kế vị, tức Trần Dụ Tông. Minh Tông vẫn giữ quyền điều hành đất nước với tư cách là Thái thượng hoàng.
Cũng nên nhắc lại, Vua Trần Anh Tông có người con gái là Huy Ninh Công chúa 徽寕公主, trước lấy Tông thất Nhân Vinh (? - 1370), sau lấy Lê Quý Ly – tức Hồ Quý Ly (胡季犛, 1336 – 1407), hoàng đế khai lập triều Hồ (胡朝, 1400-1407). Nhà Trần (陳朝, 1225–1400) theo vết đổ của nhà Lý (茹李, 1009–1225), để giang sơn rơi vào tay họ Hồ, rồi mất nước bởi nhà Minh (大明,1368–1644) để Đại Việt lại bị Bắc thuộc lần thứ Tư (北屬吝次, 1407-1427).
Vụ án oan khép lại, điều còn lại là bài học đau xót nhất trong 175 năm thịnh trị của nhà Trần và cũng là bài học quý giá cho các thời đại sau về đào tạo, sử dụng người hiền tài, chống nhóm lợi ích.
Lợi ích nhóm trong trường hợp này đã qua mặt được Vua, bịt mắt triều đình, bức hại người vô tôi, gây chia rẽ nội bộ,…dẫn đến suy yếu bộ máy, giảm sức quốc gia,…đi dần đến diệt vong!
Như vậy, trên thực tế, lợi ích nhóm đâu chỉ là vấn đề kinh tế!
Ôn cũ hiểu mới để kiên quyết không để “nhóm lợi ích” nó có điều kiện cấu kết hại dân hại nước!
-Lương Đức Mến, tháng 4 năm 2021-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng nguyên tắc cộng đồng và sở nguyện cá nhân