Chào mừng bạn đã ghé thăm,
Chúc bạn Vui, Khỏe, quanh năm Phát tài.
Nỗi niềm muốn nối vòng dài,
Kết giao muôn nẻo, tương lai nối gần.
-*-
Địa chỉ: SN 328 đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai
ĐT DĐ: 0913 089 230 - Email: luongducmen@gmail.com.

Thứ Sáu, 3 tháng 7, 2009

I a. Nhận thức về THỜI GIAN

Thời gian trôi như tên bay qua cửa sổ. Nhận biết thời gian và sắp xếp công việc hợp lý theo thời gian là cả một chuyên đề khoa học khá lý thú.

1.1. Vũ trụ và thời gian:
1.1.1. Vũ trụ:
Từ rất xa xưa, người cổ đại đã nhận ra được các sự việc xẩy ra có trình tự trước sau và thấy sự thay đổi của sáng, tối, đêm; của thời tiết, khí hậu. Đồng thời cũng dần nhận thức được sự thay đổi đó luôn gắn với sự chuyển vận của mặt Trời, mặt Trăng, các hành tinh và các vì sao.
Thời xưa người Trung Hoa nhìn lên bầu trời thấy các ngôi sao và các hành tinh đều là các đốm sáng như nhau nên đều gọi là “sao” (星, tinh). Nhưng khi thấy vị trí của các hành tinh này trên bầu trời qua mỗi đêm là khác nhau nên người xưa nghĩ rằng có những ngôi sao có thể di chuyển gọi là “hành tinh” 行星 (hành là đi, di chuyển, tinh là ngôi sao), còn những ngôi sao khác gọi là “định tinh” 定星.
Theo Thiên văn học hiện đại thì: “hành tinh là một thiên thể, có kích thước đáng kể, xoay chung quanh một ngôi sao hay, có khối lượng dưới khối lượng giới hạn để diễn ra phân rã nhiệt của deuterium và có khối lượng lớn hơn khối lượng cần thiết trong định nghĩa hành tinh trong Hệ mặt trời”. Hành tinh ở các ngôn ngữ Âu châu như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ý, tiếng Đức... đều có nguồn gốc từ chữ planetes (Πλανήτης) của tiếng Hy Lạp. Planetes có nghĩa là “dân du mục”. Còn “ sao là một thiên thể chứa chủ yếu vật chất ở trạng thái plasma, khối lượng khoảng từ 1020 đến 1040 kg, duy trì ở nhiệt độ hàng nghìn độ K, do đó tỏa ra bức xạ vật đen tương ứng có cực đại trong phổ nhìn thấy đến UV gần, nhờ các phản ứng nhiệt hạch trong lòng. Các ngôi sao thường có hình dạng gần hình cầu, tự duy trì trạng thái cân bằng thủy động lực học, nhờ sự cân bằng giữa áp suất bức xạ điện từ phát ra từ bên trong với trường hấp dẫn của bản thân”. Do thói quen du nhập từ Trung Quốc nên tên các thiên thể trong tiếng Việt đều bị gọi là “sao” , không cần biết nó là ngôi sao, hành tinh, hay hành tinh lùn.
Theo Hiệp hội Thiên văn Quốc tế (International Astronomical Union), 8 hành tinh sau đây được chấp nhận như hành tinh chính thức của Thái Dương Hệ: Thủy Tinh ☿, Kim Tinh ♀, Địa Cầu ⊕ - cùng với vệ tinh của nó là Mặt Trăng, Hỏa Tinh ♂ - cùng với 2 vệ tinh của nó là Deimos và Phobos, Mộc Tinh ♃ - cùng với 63 vệ tinh của nó, Thổ Tinh ♄ - cùng với 47 vệ tinh của nó, Thiên Vương Tinh ( , ) - cùng với 27 vệ tinh của nó , Hải Vương Tinh ♆ - cùng với 13 vệ tinh của nó. Trong đó ứng với các nguyên tố trong Ngũ hành là 5 hành tinh (thứ tự từ Mặt trời ra) : Thuỷ 水星, Kim 金星, Hoả 火星, Mộc 木星, Thổ 土星.
Các sao và hành tinh giúp con người nhận rõ sự biến đổi của thời gian là:
Mặt Trời (太陽,Thái Dương) là một ngôi sao ở trung tâm của hệ Mặt Trời và ở gần Trái đất nhất. Trái Đất quay xung quanh Mặt Trời, cũng như các thiên thể khác bao gồm các hành tinh khác, tiểu hành tinh, thiên thạch, sao chổi và bụi.
Mặt Trời là một ngôi sao thuộc chuỗi chính của biểu đồ Hertzsprung-Russell, với cấp quang phổ G2, có nghĩa là nó trong một mức độ nào đó nặng và nóng hơn các ngôi sao trung bình nhưng nhỏ hơn rất nhiều so với các sao xanh khổng lồ. Các sao G2 là nằm trên chuỗi chính và có tuổi thọ khoảng 10 tỷ năm (10 Ga), và Mặt Trời đã hình thành cách đây khoảng 5 Ga (5 tỷ năm) trước theo như kết quả tính toán của ngành niên đại vũ trụ học. Mặt Trời quay xung quanh tâm của Ngân Hà ở khoảng cách khoảng 25.000 đến 28.000 năm ánh sáng tính từ tâm thiên hà này, nó hoàn thành một chu kỳ quay vào khoảng 226 Ma (226 triệu năm). Vận tốc quỹ đạo là 217 km/s, có nghĩa là 1 năm ánh sáng bằng 1.400 năm và 1 đơn vị thiên văn (AU) bằng 8 ngày di chuyển của nó. Ký hiệu thiên văn của Mặt Trời là một vòng tròn với một chấm ở tâm ⊙ của nó.
Trái Đất (地毬,Địa Cầu), là hành tinh thứ ba trong Thái Dương Hệ tính từ Mặt Trời trở ra. Địa Cầu là hành tinh lớn nhất trong các hành tinh có đất và đá của Thái Dương Hệ. Cho đến nay đây là nơi duy nhất trong toàn vũ trụ được biết là có sự sống. Tuổi của Địa Cầu được ước lượng vào khoảng 4,6 tỷ năm; trẻ hơn một ít là Mặt Trăng, vệ tinh tự nhiên của nó. Loài sinh vật có tri giác chính của Trái Đất là loài người (Homo sapiens sapiens). Ký hiệu của Trái Đất là hình chữ thập viền tròn, đại diện cho đường kinh tuyến và xích đạo; một biến thể khác là hình chữ thập ở trên hình tròn Unicode: ⊕ hay ♁. Thời gian cần thiết để trái đất quay đủ một vòng quanh quỹ đạo mặt trời - là 365 ngày, 5 giờ, 48 phút và 46 giây và đó là năm dương lịch.
Mặt Trăng (太陰,Luna), là một vệ tinh có đất đá tương tự như các hành tinh tương đối lớn, có kích thước khoảng 1/4 đường kính Trái Đất. Các vệ tinh tự nhiên quay xung quanh các hành tinh của chúng cũng được gọi là mặt trăng, lấy theo cách gọi thông thường của Mặt Trăng của Trái Đất.
Lực hấp dẫn giữa Trái Đất và Mặt Trăng sinh ra thủy triều trên Trái Đất. Hiệu ứng tương tự trên Mặt Trăng dẫn đến sự giam giữ bởi thủy triều của nó: chu kỳ tự quay của Mặt Trăng bằng với chu kỳ quay quanh Trái Đất. Kết quả là nó luôn luôn hướng một mặt về hướng Trái Đất.
Khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất, các phần khác nhau trên mặt nó được chiếu sáng bởi Mặt Trời, nên có các pha của Mặt Trăng: phần sẫm trên bề mặt được phân cách bởi phần sáng bằng đường phân cách mặt trời.
Mặt Trăng có thể phù hợp cho sự sống do có thời tiết trung bình. Các chứng cứ hóa thạch và giả lập bởi máy tính chỉ ra rằng độ nghiêng trục của Trái Đất được ổn định bởi tương tác thủy triều với Mặt Trăng. Không có sự ổn định này để chống lại các mômen xoắn do tác động của Mặt Trời và các hành tinh khác tới Trái Đất, người ta cho rằng trục quay của Trái Đất có thể không ổn định và hỗn loạn, giống như trên Hỏa Tinh. Nếu trục quay của Trái Đất gần với mặt phẳng quỹ đạo, khí hậu Trái Đất có lẽ sẽ cực kỳ khắc nghiệt do tạo ra sự sai biệt theo mùa cực lớn. Một cực sẽ gần như hướng thẳng tới Mặt Trời trong mùa hè và ngược lại trong mùa đông. Các nhà khoa học cho rằng khi đó phần lớn các loại hình sự sống cao cấp sẽ bị hủy diệt. Điều này vẫn là một chủ đề gây tranh cãi và các nghiên cứu tiếp theo về sao Hỏa - giống với Trái Đất về chu kỳ tự quay và độ nghiêng trục, nhưng không có mặt trăng lớn hay lõi lỏng - có thể cung cấp các thông tin bổ sung.
Mặt Trăng là vừa đủ xa để khi nhìn từ Trái Đất, có kính thước góc biểu kiến giống như Mặt Trời (Mặt Trời lớn hơn 400 lần, nhưng Mặt Trăng thì lại gần hơn 400 lần). Điều này cho phép có các nhật thực toàn phần cũng như nhật thực hình khuyên diễn ra trên Trái Đất. Các chu kỳ của mặt trăng là do chuyển động của nó xoay quanh trái đất cùng lúc với trái đất xoay quanh mặt trời. Chuyển động này dễ nhận biết nên có liên quan tới việc đo lường thời gian; mặt trăng được gọi là nguyệt, là một tuần trăng, nghĩa là một tháng. Các chu kỳ của mặt trăng không tương ứng với các chu kỳ của mặt trời nên tuy việc sử dụng mặt trăng làm đơn vị thời gian này khá đơn giản, nhưng không có cơ sở để tính các tiết khí phục vụ trồng trọt.
Sự chuyển động của Mặt trăng quanh Trái đất, sự tự quay quanh trục của Trái đất và việc chúng tự xoay xung quanh Mặt trời hình thành nên hiện tượng “sáng”, “tối”, thay đổi khí hậu trên mặt đất. Nhà hiền triết Paracelsus (1541) viết: “Thượng Đế đã tạo dựng các hành tinh và các ngôi sao không phải để chúng thống trị con người, nhưng để chúng cũng như các tạo vật khác, vâng phục và phục vụ con người”.

1.1.2. Thời gian và phép đo thời gian:
Hiện tượng mặt đất được chiếu “sáng” hay chìm trong bóng “tối” và có sự thay đổi khí hậu diễn ra theo một quy luật mà từ xa xưa con người đã nhận thức được. Đồng thời cuộc sống đặt ra cho con người cần phân biệt những gì thuộc về quá khứ, những gì đang diễn ra và những gì sẽ diễn ra tiếp theo. Từ đó hình thành nên khái niệm Thời gian (時間). Đó là yếu tố vô cực, nó có như vốn có và sẽ tồn tại vĩnh viễn cùng vũ trụ. Một đơn vị đo thời gian là một thời gian chuẩn (thường không đổi theo thời gian) dùng để làm mốc so sánh về độ lớn cho mọi thời gian khác. Đó là khái niệm vật lý chỉ trình tự xảy ra của các sự kiện và đo lượng (nhiều hay ít) mà sự kiện này xảy ra trước hoặc sau sự kiện kia.
Tuy có quan niệm, có cảm thức về thời gian, nhưng không phải dân tộc nào, nước nào cũng biết chia ra những mốc thời gian một cách chuẩn mực. Hệ thống để đặt tên cho các chu kỳ thời gian, thông thường là theo các ngày được gọi là “lịch”曆. Cách tính lịch gọi là Lịch pháp 曆法 gắn liền với thiên văn, với chiêm tinh học, là sản phẩm quan trọng mà các nền văn minh tối cổ như Trung Hoa, Ai Cập, Babilon, Hy Lạp đạt được. Quyển sách ghi lại lịch, đếm ngày, để ghi chép công việc, để tính toán sự biến chuyển của các mùa gọi là Lịch thư (H: 曆書, A: Almanac, P:Almanach). Để nhận thức thời gian, qua tích lũy kinh nghiệm cổ nhân từ khái niệm ngày (日, có mặt trời), đêm (夜, không có ánh mặt trời) ban đầu dần đến nhận xét đêm có trăng, đêm không trăng (Sóc, 朔), trăng tròn (Vọng,望) trăng khuyết hình thành nên khái niệm tháng (月). Nhiều ngày, tháng chung một đặc trưng thời tiết hình thành nên mùa. Các mùa tuân theo một quy luật nhất định và vòng đó gọi là năm (Niên,年). Khi cần chia nhỏ đơn vị thời gian dưới ngày người ta chia ra giờ, trên năm hợp thành Giáp, Hội giáp, Thập kỉ, Thế kỉ, Thiên niên kỉ. Như vậy, chính vẻ đẹp hùng vĩ của bầu trời ban đêm và sự chuyển dịch của Mặt trời, Mặt trăng và các hành tính đã góp phần quan trọng cho tư thế của con người mãi mãi đứng thẳng, giúp con người dần hoàn thiện mình và phát minh ra phép đo thời gian và cách tính Lịch.
Ban đầu phép đo thời gian còn đơn giản, không có những dụng cụ thiên văn tối tân và đồng hồ chính xác, mà chỉ có cái thước và đôi mắt, chủ yếu dùng bóng nắng bởi mặt trời tự nó là cái đồng hồ! Ví dụ để đo điểm Đông chí, cổ nhân cắm một cây gậy xuống đất (hay xây một cái tháp), ghi xuống chiều dài của bóng lúc nó ngắn nhất (tức là lúc giữa trưa) vài ngày trước và sau Đông chí, rồi dùng một phép nội suy (interpolation) để tính ra thời điểm Đông chí một cách chính xác. Càng gần Đông chí, mặt trời giữa trưa càng thấp và bóng giữa trưa càng dài. Cách tính Đông chí của Tổ Xung Chi (429-500,祖冲之): trục x là thời gian, trục y là chiều dài của bóng gậy lúc giữa trưa của một ngày (bóng ngắn nhất trong ngày đó), mỗi điểm là một ngày. (a) Vẽ đường xéo nối hai điểm, (b) vẽ đường ngang từ một điểm bên kia cho tới đường xéo a, (c) trung điểm đường ngang là Đông chí.
Với sự hỗ trợ của các kính viễn vọng và máy tính điện tử, khoa học Thiên văn đã tính chính xác ngày, tiết từng vùng, điểm trên trái đất. Do trái đất quay quanh trục một góc 600 hết 1 ngày nên hiện nay, để thuận tiện cả thế giới đã dùng chung một loại lịch và phân chia ra 24 múi giờ. Do đó một nơi ở sát phía Đông kinh tuyến 1800 tức là Đường Đổi ngày Quốc tế (International Date Line), ví dụ đảo Fidji, ăn tất cả các lễ tết Dương lịch sau một nước ở sát phía tây KT 1800 , ví dụ đảo Samoa gần đó, là 23 giờ, tức là gần một ngày. Việc đó cũng tương tự như Việt Nam có năm ăn Tết Nguyên đán 元旦節 trước Trung Quốc một ngày (thực sự là trước 23 giờ).
Theo Điều 7 của Nghị định Số : 134/2007/NĐ-CP ngày 15 tháng 8 năm 2007 quy định về đơn vị đo lường chính thức của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì Đơn vị đo thời gian tiêu chuẩn ở Việt Nam tuân thủ Hệ đơn vị SI là hệ đơn vị đo lường quốc tế (tiếng Pháp là Système International d’Unités; tiếng Anh là The International System of Units) là giây (kí hiệu s).Còn đơn vị đo lường chính thức ngoài hệ đơn vị SI, theo quy định tại Điều 8 là: phút (min) = 60 s, giờ (h) = 60 min = 3 600 s, ngày (d) = 24 h = 86 400 s.
Trong lý thuyết tương đối của Albert Einstein, đại lượng ct, với c là vận tốc ánh sáng và t là thời gian, được coi như là một chiều đặc biệt thêm vào cho không gian ba chiều để tạo thành không-thời gian. Việc cho thêm chiều thời gian giúp việc định vị các sự kiện được dễ dàng khi hệ quy chiếu thay đổi, tương tự như định vị các điểm trong không gian ba chiều cổ điển.

1.2. Thiên can Địa chi 天干地支:
Cổ xưa, người Trung Hoa chưa biết đến số đếm. Thời Hoàng đế (黃帝 ,2000 tCn) người ta sáng tạo ra “Can, Chi” (干支 gānzhī) là hệ đếm cổ (10, 12) dùng ở Nhật Bản, Triều Tiên, Trung Quốc, Việt Nam ban đầu để chỉ ngày, sau đó vì tính tiện ích tổng hợp của nó, nó được dùng gọi giờ, tháng và năm và gắn với những con vật. Như vậy can chi trở thành đơn vị thời gian âm lịch. Nhưng nếu nghiên cứu kĩ các nhận xét về bệnh tật của các con giáp cho phép thừa nhận sự chặt chẽ và khoa học hệ đếm can chi này.
Do ảnh hưởng của văn hoá Hán tộc, Việt Nam ta lúc đầu tiếp thu gần như y nguyên nguyên lý tính lịch theo can chi và bắt đầu được cải biên cho phù hợp bởi sáng chế ra “lung linh nghi” 玲瓏儀 của Đặng Lộ 邓璐 thời Trần Hiến Tông (陳宪宗,1329-1341). Trong đó những can chi ứng với phần sinh trưởng lên khỏi mặt đất thuộc cương là Dương 陽, đối ngoại ứng phần bám vào đất, ở trong đất, từ đất chui ra thuộc nhu, là Âm 陰, đối nội. Vấn đề này sẽ nghiên cứu kĩ sau.

1.2.1. Mười thiên can 十天干:
Can 干 có nghĩa là cây có gốc ở Trời nên gọi là Thiên can (天干; tiāngān) và bởi dùng ngũ vận để tính Thiên căn (2 x 5=10) nên gọi Thập Can (十干; shígān). Thập Thiên can là: 甲Giáp(1), 乙 Ất (2), 丙 Bính (3), 丁 Đinh(4), 戊 Mậu (5), 己 Kỷ (6), 庚 Canh(7), 辛 Tân (8), 壬 Nhâm (9), 癸 Quý (10). Số lẻ là dương can (Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm), Số chẵn là âm can (Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý).
Những cặp đối xung: Giáp và Kỷ, Ất và Canh, Bính và Tân, Đinh và Nhâm, Mậu và Quý (hơn kém nhau 5). Do có 10 Can nên khi phối với Ngũ hành thì 2 can chung một hành.
Thập Thiên can được đưa vào khoa dự đoán học bằng quy luật Sinh, Vượng, Tử, Tuyệt qua 12 trạng thái là: 1.Trường sinh (sinh ra, thịnh vượng) - 2.Mộc dục (tắm rửa) - 3.Quan đái (tự phục vụ) - 4.Lâm quan (đi làm) - 5.Đế vượng (thành đạt)- 6.Suy - 7.Bệnh - 8.Tử - 9.Mộ - 10.Tuyệt - 11.Thai - 12.Dưỡng. Thời kì 6, 7, 8, 9, 10 là giai đoạn sự vật phát triển đi xuống đến hết; sau đó vào giai đoạn bình vận ở 11 và 12. Cách tính Cát, Hung cho từng thời gian, phương vị của mỗi người dựa vào Thập Thiên can (chủ yếu lấy ngày sinh) sẽ nghiên cứu ở phần dự đoán vận số sau.
Trong khoa Độn Giáp thì nhóm Thiên can: Ất, Bính, Đinh được gọi là Tam Kỳ (tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng và tinh tú); nhóm Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí được gọi là Lục Nghi. Can giáp được ẩn đi nên gọi là Độn Giáp.

1.2.2. Mười hai địa chi 十二地支:
Chi có nghĩa là cành trúc bị lìa khỏi thân, là cành nơi mặt đất (Ðịa chi, 地支; dìzhī) hay Thập Nhị Chi ( 十二支, shíèrzhī). Ðiạ chi được tính theo lục khí là 2 x 6=12. Thập nhị Đại chi theo thứ tự từ 1 đến 12 là : Tý (1), Sửu (2), Dần (3) , Mão (4), Thìn (5), Tỵ (6), Ngọ (7), Mùi (8), Thân (9), Dậu (10), Tuất (11), Hợi (12). Người ta đã gắn 12 con vật (Chuột, Trậu...Chó, Lợn) vào địa chi gọi là cầm tinh. Nhưng những cái tên chuột, mèo, rồng, rắn…của chúng chưa đủ để đưa chúng vào vũ trụ. Con người lại phải gán cho chúng các phương vị : Đông, Tây, Nam, Bắc.
Về mặt âm dương thì:
- Số lẻ là dương chi: 子,寅,辰,午,申,戌;
- Số chẵn là âm chi: 丑,卯,巳,未,酉,亥.
Về mặt tương xung, tương hợp có:
* Lục xung: Tý (Quý Thuỷ) và Ngọ (Đinh Hoả), Sửu và Mùi, Dần (Giáp Mộc) và Thân (Canh Kim), Mão và Dậu, Thìn và Tuất, Tị và Hợi (hơn kém 6).
* Nhị hợp: Tý - Sửu, Mão - Tuất, Tị - Thân, Dần- Hợi, Thìn- Dậu, Ngọ- Mùi.
* Tam hợp: Thân - Tý - Thìn, Dần - Ngọ- Tuất, Hợi- Mão - Mùi, Tị -Dậu - Sửu.
* Tương xiên (hại): bởi Tý xung Ngọ, mà Sửu lại hợp với Ngọ, tăng sức cho Tý để làm hại cho Ngọ, Sửu là kẻ thù gián tiếp của Ngọ nên từ đó ta có các cặp tương xiên hại nhau là: Tý -Mùi, Sửu - Ngọ, Dần -Tỵ, Thân - Hợi , Dậu - Tuất.
* Lại có Tượng hình của 12 chi: - Thị Thế chi hình: Dần hình Tỵ, Tỵ hình Thân, Thân hình Dần.
- Vô ân chi hình: Sửu hình Tuất, Tuất hình Mùi, Mùi hình Sửu.
-Vô lễ chi hình: Lý hình Mão, Mão hình Tý.
-Tự hình chi hình: Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi loại hình này được coi nhẹ.
Như vậy mỗi chi chỉ có một xung (ví dụ Tý xung Ngọ), ba hợp (ví dụ Tý hợp Sửu, Tý hợp với Thân và Thìn).

1.2.3. Sinh, Vượng, Tử, Tuyệt:
Từ Can ngày suy ra được thời điểm (năm, tháng, ngày) hay phương (so với phương mình sinh ra) lợi (Trường sinh…Đế vượng) hay bất lợi (Suy…Tuyệt). Đây có thể coi là Thời gian biểu hướng vào việc tốt, tránh xấu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tôn trọng nguyên tắc cộng đồng và sở nguyện cá nhân