Thời
gian gần đây trên các trang mạng rộ lên bàn tán xung quanh việc Sách giáo khoa
in bài thơ “Nam
quốc sơn hà” có vẻ “khác thường” (!?). Đọc kỹ các bài từ chê đến bênh, từ của bậc
trí giả đến người bình dân thấy vẫn còn điều lợn cợn mà chưa ai đề cập đến.
Ngẫm
mãi, thứ Bẩy cả nhà đi vắng, rỗi viết lại và lên tiếng, không phải a dua “theo
đám đông” mà nói lên cái Tâm, cái Trí của mình, cũng là một cách tri ân tiền
nhân!
1.
Nam
quốc sơn hà 南國山河 là 4 chữ đầu một
bài thơ thể thất ngôn tứ tuyệt, hiện còn chưa rõ tác giả chứ không phải tên bài
thơ và tác giả là Lý Thường Kiệt như nhiều người khẳng định. Đây là bài thơ “THẦN”
神詩 được coi là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam và chỉ được đưa vào chính
sử khi nhóm Ngô Sĩ Liên (吳士連,
?-?) soạn “Đại Việt Sử ký Toàn thư” 大越史記全書
từ giữa thế kỷ XV, khắc in vào năm 1697 dựa trên cuốn Đại Việt sử ký 大越史記 của Lê Văn Hưu (黎文休,
1230-1322) soạn hồi thế kỷ XIII mà
nay đã bị thất lạc.
Theo
những tư liệu hiện có thì bài thơ này do Thần đọc giúp cả Lý Thường Kiệt (李常傑,
1019 – 1105) phá quân Tống năm 1077 ở phòng tuyến sông Cầu 銣 月 江. Nhưng có tư liệu nói
do Thần từng đọc giúp Lê Hoàn (黎桓, 941 – 1005) đánh quân Tống (宋朝,
960–1279) năm 981 trên sông Bạch Đằng 白藤江 !.
2.
Nội dung bài thơ này hiện tìm thấy 35 dị bản nhưng bài khắc trên Mộc bản triều
Nguyễn là bản khắc gỗ cổ nhất còn lại
cho đến ngày nay. Phiên bản này thống nhất với bản bài thơ trong Đại Việt sử ký
toàn thư có nội dung như sau:
2.1.
Nguyên bản chữ Hán:
南國山河
南
國 山
河 南
帝 居
截
然 分
定 在
天 書
如
何 逆
虜 來
侵 犯
汝
等 行
看 取
敗 虛
2.2.
Bản
phiên âm Hán-Việt:
Tiệt
nhiên phân định tại Thiên thư.
Như
hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ
đẳng hành khan thủ bại hư.
2.3.
Bản
dịch thơ:
Sông
núi nước Nam
Sông
núi nước Nam , vua Nam ở,
Rành
rành phân định tại sách trời
Cớ
sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng
bay sẽ bị đánh tơi bời
3.
Một trong những dị bản là bản quen
thuộc mà lứa chúng tôi đã được học:
3.1.
Nguyên
bản chữ Hán (đổi vị trí 2 chữ 定 và
分):
南國山河
南
國 山
河 南
帝 居
截
然 定
分 在
天 書
如
何 逆
虜 來
侵 犯
汝
等 行
看 取
敗 虛
3.2.
Bản
phiên âm Hán-Việt (đổi vị trí 2 chữ định và phân/phận):
Tiệt
nhiên định phận tại Thiên thư.
Như
hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ
đẳng hành khan thủ bại hư.
3.3.
Bản
dịch thơ :
Sông
núi nước Nam
Sông
núi nước Nam , vua Nam ở,
Rành
rành định phận tại sách trời
Cớ
sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng
bay sẽ bị đánh tơi bời
(Bản
dịch này từ lâu phổ biến trên nhiều sách báo và trong nhà trường, song không
ghi tên dịch giả Hoàng Xuân Hãn (1908-1996)).
4.
Ngược dòng lịch sử, trước Đại Việt sử ký toàn thư, sách Lĩnh Nam chích quái 嶺南摭怪 do Trần Thế
Pháp (陳世法
?-?) soạn đời Trần (陳朝,
1226–1400) gắn bài thơ với cuộc chiến chống quân Tống lần thứ nhất thời Tiền Lê
của Lê Đại Hành năm 981, với nội dung hơi khác một chút như sau:
4.1.Nguyên
văn chữ Hán:
南國山河南帝居,
皇天已定在天書。
如何北虜來侵掠,
白刃翻成破竹餘。
4.2.
Phiên
âm Hán Việt:
Hoàng
thiên dĩ định tại thiên thư.
Như
hà Bắc lỗ lai xâm lược,
Bạch
nhận phiên thành phá trúc dư.
4.3.
Dịch nghĩa:
Sông
núi nước Nam thì Hoàng đế nước
Nam
ở.
Thượng
đế đã định rõ như vậy trong sách trời.
Cớ
sao giặc phương Bắc lại tới đây xâm lược,
Gươm
sáng sẽ chém hết các ngươi tan tành như chẻ tre.
5.
Như đã nói ở trên, đến nay các học giả đã tìm thấy 35 dị bản bằng chữ Hán của
bài thơ THẦN này, vì thế, có nhiều bản dịch
cũng là chuyện bình thường.
Gần
đây dư luận xôn xao bởi bản dịch có nội dung là:
Núi
sông Nam Việt vua Nam
ở,
Vằng
vặc sách trời chia xứ sở.
Giặc
dữ cớ sao phạm đến đây?
Chúng
mày nhất định phải tan vỡ.
Thực
ra đây không phải là bản “dịch mới, dịch lại” như nhiều người nói mà nó là bản
dịch của 2 nhà Hán học uyên thâm là Giải nguyên Lê Thước (1891 - 1975) và Tú
tài Nam Trân (1907-1967) có trong cuốn Thơ văn Lý Trần - tập 1, NXB Khoa học xã
hội, 1977!
Hơn
nữa dịch, nhất là dịch thơ ra thơ luôn mang tính tương đối nên băn khoăn về “dịch
mới, dịch lại”, “làm mất ý nghĩa bài thơ” là không có cơ sở.
6.
Cá nhân tôi, do ham thích nên đã đọc
nhiều các lời giảng, lời bình mà không ít tác giả là những Giáo sư, Tiến sĩ dạy
Đại học, nghiên cứu ở Viện nọ, trường kia, bằng cấp Hán văn, Anh văn…đầy mình.
Tôi thán phục họ bởi đó là những bậc thầy về chuyên ngành trong khi mình chỉ là
hậu sinh, không học chuyên ngành, kiến thức lỗ mỗ và chắp vá. Song từ tâm thức
mình, tôi thấy những bài viết đó có bài thể hiện rõ tác giả chưa nắm chắc về lịch
sử Việt, Hán, về sự tế nhị của thời cuộc và do vậy họ chưa nhận ra sự sâu sắc
trong những chữ đầy ẩn dụ của tiền nhân. Sau đây, qua mấy chữ của 2 câu đầu sẽ
thấy:
7.
Câu
thứ nhất: 南國山河南帝居 (Nam quốc sơn hà Nam đế cư)
7.1.
Chữ “hà” 河 trong “sơn hà” 山河:
Hán
tự có 2 chữ chỉ sông, đó là 河 (hà) và 江
(giang) và ở Trung Quốc:
-
2 tỉnh nằm ở phía bắc, trung của Trung Quốc, tức hai bờ sông Hoàng Hà 黃河
được xem là vùng đất phát
nguyên trung tâm của nền văn minh Trung Hoa
中华文化 là: Hà
Bắc 河北 và Hà Nam 河南
thường gọi là Lưỡng Hà
兩河;
-
Còn tỉnh nằm cách xa trung tâm
và độc lập với nền văn minh Hoa Hạ
華夏 cổ cũng gắn với sông nhưng lại lấy chữ
“giang”: Chiết Giang 浙江
(trong tiếng Việt hay bị viết nhầm thành Triết Giang), Giang Tô 江苏,
Giang Tây 江西.
Bài thơ dùng chữ 河
(hà) hàm ý khẳng định Việt và Hoa là hai xứ khác nhau, hai đất nước khác nhau
và nước Việt lập quốc ngang thời với vùng Hoa Hạ. Đất nước này có văn minh
riêng-Văn minh sông Hồng mà chữ Hán là 紅河
(Hồng hà) chứ không phải là phên dậu sau này nhập vào Bắc quốc như vùng Giang
Nam 江南 (vùng đất nằm về phía nam của hạ lưu Trường
Giang 長江 (Dương Tử 扬子江,
con sông dài nhất châu Á)) !
7.2.
Chữ “đế” 帝 trong “Nam đế”
南帝:
Quốc
gia quân chủ là quốc gia mà cấu trúc chính quyền có vua đứng đầu. Tùy độ lớn của
quốc gia mức độ ảnh hưởng của nó tới lân
bang mà người đứng đầu đó có thể gọi là:
-
Hoàng đế (H: 皇帝, A: emperor , P:
empereor là tước vị cao của vua thường là người cai trị của một đế chế hoặc loại
khác của vương quốc đế quốc. Chữ này do Doanh Chính (嬴政/Triệu
Chính 趙政, 259 tCn-210 tCn) đặt
ra khi diệt 6 nước, thống nhất trung nguyên (221 tCn) sáng lập ra nhà Tần (秦朝,
221 tCn - 206 tCn), trở thành Tần Thủy
Hoàng 秦始皇.
-
Vương 王 mà tiếng Việt gọi là
“Vua” 君主 là người đứng đầu tối
cao, thực tế hoặc biểu tượng, của chính quyền quân chủ ở một quốc gia. Nó là cấp
dưới thấp hơn “đế”, do “đế” phong.
Trong
lịch sử thời phong kiến tự chủ, để sống yên ổn bên cạnh anh hàng xóm lớn, nặng
tư tưởng bá quyền, các triều đình Đại Việt đã tìm ra cách chung sống hiệu quả bằng
cách ứng xử “trong đế ngoài vương”! Tức là: bên ngoài vẫn cầu phong, xưng thần
với “thiên tử” Trung Quốc nhưng bên trong thì đường hoàng là hoàng đế Việt Nam , “nghêng
ngang riêng một biên thuỳ, thiếu gì cô quả thiếu gì bá vương”.
7.3.
Trong bài thơ, cổ nhân dùng “Sơn hà” và “Nam đế” hàm ý: Nước Nam, “vốn xưng nền Văn hiến
đã lâu” và có chủ, chủ là Hoàng đế giống như bên Bắc quốc! Nên mọi bản
dịch chữ “南帝” (Nam đế) chuyển
thành “Vua Nam” là chưa nêu bật được tinh thần quốc gia, tự tôn dân tộc của bài
thơ!
8.
Về câu thứ 2: 截
然 定
分/分定
在 天
書 (Tiệt nhiên định phận/phân định tại
Thiên thư)
8.1.
Chữ “phận” 分 (cũng đọc là “phân”) có
nghĩa là tách chia, địa phận, ranh giới, biên giới và cũng có nghĩa là danh phận,
chức phận, số phận. Do vậy viết “định phận” sẽ được hiểu là số phận đã định, gợi
lên một liên tưởng tiêu cực, thụ động. Phải là “phân định” thể hiện rõ việc
“núi sông bờ cõi đã chia” rất rõ ràng.
8.2.
Thiên Thư 天書 là sách Kinh Thư 書經, tức bản Thượng Thư 尚書
mà Khổng Tử (孔子, 551 –479 tCn) đã san định trong đó có kể về
Việt Thường Thị 越 裳 氏 giao
hảo với nhà Chu (周朝, 1122 –249 tCn) cống
chim Trĩ. Các sử gia Trung Hoa về sau đều căn cứ vào đó để chép, phân tích,
nghiên cứu lịch sử và tư tưởng chính trị của Trung Quốc thời cổ đại.
Về
việc này Đại Việt sử ký toàn thư chép:
Thời Hoàng Đế 黄 帝 dựng
muôn nước, lấy địa giới Giao Chỉ 交 趾 về
phía Tây Nam, xa ngoài đất Bách Việt 百 粤. Vua Nghiêu 堯 sai
Hy thị 羲氏 đến ở Nam Giao 南 交 để định đất Giao Chỉ ở phương Nam. Vua
Vũ 禹 chia chín châu thì Bách Việt thuộc phần đất châu Dương 楊 州, Giao Chỉ thuộc về đấy. Từ đời Thành
Vương 成 周 nhà
Chu mới gọi là Việt Thường thị 越 裳 氏, tên Việt 越 bắt
đầu có từ đấy.
8.3.
Từ “Phân định” dẫn ở sách “Thiên thư”, tiền nhân khẳng định Việt
và Hoa hay nói cách khác Nam và Bắc là
hai quốc gia khác nhau, độc lập với nhau và điều đó đã được phân chia ranh giới
rõ ràng từ thượng cổ. Do vậy, cùng với câu 1 đã phân tích ở trên bài
thơ được xem là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước Việt.
Trên
tinh thần ấy, tôi thích bản dịch ở Đại Việt sử ký toàn thư:
Sông
núi nước Nam , Nam đế
ở,
Rõ
ràng phân định tại sách trời
Cớ
sao nghịch tặc sang xâm phạm?
Cứ
thử làm xem, chuốc bại nhơ!
-Lương Đức Mến, Thu Ất Mùi 2015-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Tôn trọng nguyên tắc cộng đồng và sở nguyện cá nhân